Những đặc sản tiến vua nổi tiếng Việt Nam

Xưa kia, những món ăn đặc sản của mỗi vùng đất đều được dùng để tiến vua. Dưới đây là danh sách các món tiến vua nức tiếng, vang danh một thời.

 

1. Cá anh vũ

Trong những đặc sản tiến vua, sang trọng bậc nhất, quý hiếm bậc nhất phải kể đến loài cá “môi dày” có tên anh vũ. Loài cá thuộc họ cá chép là đặc sản của vùng ngã ba sông Việt Trì, Phú Thọ, nơi hội tụ của sông Lô, sông Thao, sông Đà.

Cá ngon nhất ở khối sụn môi, cũng là đặc điểm kì thú nhất của loại cá này. Môi cá phát triển như vậy là do chúng chỉ ăn loại rêu mọc trên đá ở lòng sông, chúng thường dùng môi để gặm, lúc ngủ cũng dùng môi để bám trụ vào đá, chống lại luồng nước chảy. Thịt cá Anh vũ trắng, chắc và thơm ngon, không những vậy còn có tác dụng bồi bổ cơ thể, là đặc sản được nhiều đời vua ưa thích.

2. Chim sâm cầm

Chim sâm cầm di cư từ phương Bắc, sống thành đàn ở những nơi có nước như ao, hồ, đầm lầy, sông ngòi có nhiều cây thủy sinh, xưa được bắt gặp ở Hồ Tây là nhiều hơn cả. Tương truyền loài chim có tên sâm cầm bởi chim ăn nhiều sâm quý trên núi, vì đó thịt chim cũng được coi là vị thuốc đại bổ.

Chim sâm cầm là sản vật tiến vua của vùng Hồ Tây từ năm Tự Đức thứ 17 đến năm Tự Đức 24. Thịt chim mềm, màu đỏ tươi, chế biến thành nhiều món cầu kì. Do có sự tích và là sản vật quý dâng vua nên chim sâm cầm bị săn bắt tràn lan, đến nay gần như đã không còn dấu vết.

3. Gà Đông Tảo

Gà Đông Tảo, hay gà “chân voi” là sản vật tiến vua đặc biệt quý hiếm chỉ được nuôi cổ truyền ở xã Đông Tảo, huyện Khoái Châu, Hưng Yên và cũng chỉ có duy nhất ở Việt Nam, không thể tìm thấy ở bất kì nơi nào trên thế giới.

mav141

Đặc điểm nổi bật của gà Đông Tảo là hình dáng bệ vệ cùng đội chân lớn sù sì, to cỡ cổ tay trẻ nhỏ. Đây cũng là phần thịt ngon và quý nhất của gà Đông Tảo. Trước đây, gà thường được dùng để cúng tế hoặc tiến Vua. Ngày nay, số lượng gà Đông Tảo thuần chủng còn lại rất ít, trị giá rất cao (hơn 1 cây vàng/ cặp trống và mái).

4. Yến sào

Yến sào là tổ của chim yến, được làm hoàn toàn từ nước bọt chim yến. Tổ yến xưa là sản vật quý dâng vua, và chỉ các nhà vương giả mới đủ tiền mua. Đến ngày nay, đây vẫn là thực phẩm bổi bổ đắt đỏ, không phải ai cũng đủ khả năng mua được.

Yến sào có thể được chế biến thành nhiều món như nước yến, huyết yến, chè yến, súp yến. Tổ yến là món “thập toàn đại bổ”, có thể thu hoạch nhiều nhất ở Khánh Hòa, nơi chim yến làm tổ nhiều nhất ở Việt Nam.

5. Chuối ngự

Chuối ngự là sản vật tiến vua của mảnh đất Nam Định, là thành quả lòng cảm kích của nhân dân trước công lao to lớn của vua quan nhà Trần đánh giặc giỏi, trị nước tài. Và cũng vì cảm kích lòng dân mà vua ban danh cho sản phẩm ấy là chuối ngự, nghĩa là thuộc về nhà vua, chứ không phải sản vật “tiến” vua như nhiều thứ khác.

Chuối ngự Nam Định quả rất nhỏ, khi chín có màu vàng ươm như tơ tằm, mùi thơm ngát, vị ngọt thanh. Trong các loại chuối thì dáng chuối ngự đẹp nhất, từ buồng đến nải lẫn quả, là giống chuối quý cần được giữ gìn.

6. Rau muống Linh Chiểu

Vùng đất cổ Sơn Tây có bốn đặc sản tiến vua, ngoài ba loại động vật quý hiếm có sự xuất hiện duy nhất của một loại rau, ấy là rau muống Linh Chiểu, có nguồn gốc từ làng Linh Chiểu, Phúc Thọ, Hà Nội. Rau muống Linh Chiểu không hề chát, ăn giòn, vị đậm đà, dù luộc, xào hay nhúng lẩu đểu giữ nguyên màu xanh và vị giòn ấy.

Giống rau quý ấy vẫn còn được duy trì đến ngày nay. Với nhiều người dân trong làng, rau muống Linh Chiểu không chỉ đơn thuần là thực phẩm để ăn, để bán mà còn trở thành một thứ quà quý để mang biếu.

7. Nhãn lồng Hưng Yên

Nhãn lồng Hưng Yên là loại quả có vỏ gai, dày và vàng sậm. Cùi nhãn lồng dày xếp hình dẻ quạt, khô mọng căng nước và hạt nhỏ, có vị thơm ngọt sắc sảo như đường phèn. Nhãn ra hoa vào mùa xuân, quả chín đúng vụ vào tháng sáu âm lịch.

Tương truyền, nhãn lồng được trồng ở Kinh kỳ Phố Hiến, ngay trong Đình Hiến và đã được dựng bia ghi danh. Giống nhãn lồng Hưng Yên đã từ lâu đã có tiếng là thơm ngon nên từng được tiến cung dâng vua. Cũng vì vậy mà còn được gọi là “nhãn tiến vua”.

8. Vải thiều Thanh Hà

Trong các vùng có trồng cây vải ở Việt Nam, vải thiều Thanh Hà, Hải Dương là nổi tiếng hơn cả. Vải thu hoạch từ các cây trong khu vực này thường có vị thơm và ngọt hơn các nơi khác (mặc dù cũng lấy giống từ đây).

Vải Thanh Hà còn có đặc điểm hạt rất nhỏ, cùi dày, thịt quả chắc vô cùng ngon miệng. Xưa kia, đây là thức quả thường xuyên có trong danh sách là sản vật tiến vua của địa phương.

9. Gà chín cựa

Gà chín cựa ngỡ chỉ có trong truyền thuyết kén rể của vua Hùng thực chất lại có thật, và đang được nhân giống lên hàng vạn con. Hiện nay, giống gà quý được nuôi ở nhiều nơi như Bắc Ninh, Phú Thọ…

Trước kia, gà chín cựa được nuôi để tiến vua. Ngày nay, đây cũng là một loại đặc sản quý chuyên dùng để biếu tặng. Gà có giá bán trên thị trường khoảng 3 triệu đồng/con. Gà cho thịt ngon, các thớ thịt săn chắc, da dày và giòn như gà chọi, thịt ngọt và thơm, bùi.

10. Bánh phu thê

Là nơi phát tích của vương triều nhà Lý, Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) thường được gọi là đất vua. Đây cũng vùng đất của một đặc sản nổi tiếng đã được đưa vào tận kinh đô Huế để tiến vua, đó là bánh phu thê.

Đúng như tên gọi của mình (phu thê nghĩa là vợ chồng), món bánh này không lẻ chiếc mà đi theo cặp. Phía sau những lớp lá chuối, chiếc bánh hiện ra với lớp vỏ làm bằng bột nếp óng ánh màu vàng tươi. Nhân bánh là đỗ xanh giã nhuyễn, nhào đường, có thể cho thêm dừa.

11. Bưởi đỏ Luận Văn

Khác với các giống bưởi khác thường có màu xanh hoặc vàng, bưởi Luận Văn có màu đỏ, là đặc sản của vùng Thọ Xuân, Thanh Hóa. Màu đỏ của bưởi cùng là đặc điểm nổi bật biến thứ quả quê này trở thành đặc sản tiến vua thời Hậu Lê.

Khi chín, quả bưởi chuyển dần sang màu đỏ gấc, vỏ quả, cùi quả, vỏ múi, có màu đỏ rất đẹp mắt, múi bưởi đỏ hồng, mọng nước, ngọt, hương thơm đặc trưng. Màu đỏ còn là màu tượng trưng cho sự may mắn, nên loại quả này cũng rất được ưa chuộng trong các dịp lễ Tết.

12. Nước mắm Nam Ô

Làng Nam Ô (Hoà Hiệp Nam, Liên Chiểu, Đà Nẵng) xưa nay đã lừng danh với nghề làm nước mắm “tiến vua”. Thương hiệu nước mắm Nam Ô không lẫn vào các loại nước mắm khác, do hương vị chế biến từ một thứ nguyên liệu độc đáo – con cá cơm than. Mắm người làng Nam Ô làm ra cho chất lượng nguyên chất, tuyệt hảo, sản phẩm tinh khiết, hợp vệ sinh, chất đạm vừa phải, rất cần thiết cho sức khỏe”…

(Theo Depplus.vn/MASK)

Bộ ảnh tết Trung Thu xưa (phần 2)

Tết Trung Thu là một phần không thể thiếu trong ký ức tuổi thơ của mỗi người. Theo thời gian, mọi thứ đều thay đổi và không khí của ngày hội tuổi thơ xưa nay chỉ còn trong những bức ảnh hiếm hoi còn sót lại. Mời các bạn xem tiếp bộ ảnh về Trung Thu xưa, nguồn ảnh sưu tầm:

Một cửa hàng điện tử tại thị xã Cao Bằng bày bán thêm đèn ông sao và đồ chơi Trung thu. Ảnh được chụp năm 1994.

Phá mâm cỗ Trung thu luôn là khoảng thời gian được các em thiếu nhi mong chờ nhất.

Cửa hàng bán đồ Trung Thu đầu thế kỷ 20.

Một đại gia đình tề tựu đông đủ bên mâm cỗ Trung Thu (đầu thế kỷ 20).

Trẻ em vui sướng bên đèn Ông Sao (1989)


Hà Nội thập niên 1990, một cô bán đèn lồng đang “chào hàng” với một bé gái bên quán nước.


Một chợ Trung thu Hà Nội, năm 1987.


Đồ chơi Trung thu xưa gắn với truyền thống dân tộc (đầu thế kỷ 20).


Anh sửa lồng đèn cho em, hình ảnh không thể quên với tuổi thơ 8x trở về trước.


Sài Gòn mùa Trung thu xưa (thập niên 1990).


Bánh Trung Thu Đông Hưng Viên nổi tiếng Sài Gòn, ảnh chụp trước 1975.

Xem tiếp:
Bộ ảnh tết Trung Thu xưa (phần 1)
Bộ ảnh tết Trung Thu xưa (phần 3) 

Mỹ Mạnh TỔNG HỢP (MAV.vn)

Món ăn Việt Nam đời xưa

Nấu nướng là một phần quan trọng của văn hóa. Những di tích thuộc về môn nầy là chứng chính xác để đo trình độ văn minh của một dân tộc vào một thời đại. Ở nước ta, nay còn thấy một bản cảo, bằng chữ chép những món ăn với cách làm trước nay hơn 250 năm. 

Món Ăn Việt Nam Đời Xưa theo sách Thực Vật Tất Khảo

Hoàng Xuân Hãn

Nấu nướng là một phần quan trọng của văn hóa. Những di tích thuộc về môn nầy là chứng chính xác để đo trình độ văn minh của một dân tộc vào một thời đại.

Ở nước ta, nay còn thấy một bản cảo, bằng chữ nôm, chép những món ăn với cách làm trước nay hơn 250 năm. Cảo ấy mang tên ” Thực vật tất khảo tường kí lục ” (1), nghĩa là : tập ghi rõ ràng những phép phải khảo khi làm các món ăn. Ta sẽ gọi tắt cảo ấy là ” Thực vật tất khảo “. Cảo gồm 125 tờ giấy dó, khổ nhỏ 14 x 22 phân. Mỗi trang viết 8 cột. Trong cảo có 279 tiểu đề. Mỗi tiểu-đề có ghi số mã (thứ-tự) từ 1 đến 288. Vì lẽ có số mã bị bỏ sót, có số mã được dùng hai lần, cho nên tiểu đề ít hơn số mã. Mỗi tiểu-đề mang tên một món ăn, trừ tiểu đề mang số 184 ” Trị lăng pháp ” (2) nghĩa là phép xây lăng (mộ vua, chúa). Kẻ dọn cảo nầy đã sao lục góp lại nhiều sơ cảo có trước, trong đó có hai thực phả. Thực phả đầu chứa 174 món ăn, thực-phả sau chứa 104 món. Hai phả ấy có ghi đến 90 món và lời giải trùng nhau. Nếu lọc lại thì chỉ còn 189 món khác nhau, tuy rằng tổng số ghi là 279 món và số mã đánh từ 1 đến 288. Tuy vậy, hàng đầu cảo mang hai chữ tân san (3) nghĩa là mới khắc. Ta không rõ rằng vốn đã có bản khắc chăng, hay là ý soạn giả muốn đem cảo nầy ra khắc.

Sau các đoạn đuợc sao tập, còn thấy ghi thời điểm. Đó là những thời điểm các sơ cảo. Dẫu sao, các điều ghi lại trong cảo nầy theo các thời điểm ấy, chắc đã có từ hơn 250 năm, vào khoảng đầu đời vua Cảnh Hưng nhà Lê.

Tóm lại, cảo ” Thực vật tất khảo ” gồm có hai phần chính là hai thực phả và ba phần phụ như sẽ thấy sau :

Những món ăn được ghi lại đều thuần túy Việt Nam, dùng trong mọi từng lớp xã hội, từ nước cáy ở thôn quê, qua cá rán nhà trưởng giả, đến ram mọc chim nhà quyền quí. Đáng chú ý là không thấy những món nay coi là rất sang, như vây, bóng, yến sào. Vây, bóng có lẽ ngoại lai. Còn yến sào thì được dùng làm gia vị cho nhiều món. Sự hiện diện yến sào và phép xây lăng trong cảo khiến ta phải nghĩ rằng soạn giả cảo nầy là một thái giám coi việc nội vụ trong cung chúa Trịnh hoặc vua Lê. Năm soạn phép xây lăng (1735) chính là năm vua Long Đửc mất. Ý chừng, ấy trỏ lăng vị vua nầy.

Trong số các món ăn được ghi, đại khái có hơn 10 loại: mỗi loại gồm nhiều thứ: loại Bánh (28 thứ), Xôi (15), Mứt (19), Dưa (10), Mắm (24), Cá (16), Thịt chả (15), Chim gà (17), Món chay (19), Bột, Kẹo, Bún, Nấm, vân vân (26).

Về cách làm những món ăn, văn dùng toàn là văn xuôi nôm viết theo lời nói thông thường, giản dị, có nơi ngắn ngủi nên tối nghĩa. Vả chăng kẻ viết nôm trong cảo không phải nhà nho giỏi chữ, cho nên chữ nôm viết không chính-xác, không thống nhất. Những Việt từ dùng đây thường trỏ món ăn hoặc cách nấu nướng; nó không thường thấy trong những tập văn chương ta quen biết. Khi biên giả dùng phép hài thanh, thì có lúc dùng âm tố Hán quá xa âm tố Việt mà mình muốn diễn, ví dụ dùng các âm Hán tiếp, lồi, kim, tạm để diễn những từ Việt bếp, nhồi, rim, rạm. Vì vậy, phiên âm cảo nầy gặp nhiều trở ngại. Kết quả cũng không chính xác. Nhưng đây là một tư liệu rất quan trọng để khảo ngôn ngữ và chữ nôm dân gian về đầu đời Cảnh Hưng.

Tôi bắt đầu giới thiệu một vài món ăn, bằng cách diễn âm y nguyên văn nôm. Tôi sẽ chú thích chữ khó, nêu chữ ngờ. Có chỗ tôi thêm, trong cặp vòng đơn, một chữ để câu văn thành dễ hiểu. Hoặc có chữ nôm không đoán ra âm, tôi sẽ thay bằng âm khác cho xuôi nghĩa ; âm thế sẽ đặt giữa cặp vòng vuông […], và nếu làm được thì tôi sẽ viết thêm chữ nôm bị nghi ngờ. Cảo nầy, mỗi trương viết 8 dòng, chữ tháo khó đọc. Riêng những món trùng điệp ở hai thực phả, thì có thể so sánh mà sửa chữa chỗ sai chỗ sót. Tôi sẽ ghi chú thích liền sau mỗi bài.

1. XÔI VÒ – số 31 và 207

Lấy đậu xanh mà ngâm, phỏng một trống nửa canh(a). Văn (b) ra xem nó tróc vỏ (chưa). Lấy muối mà xát khan (c) cho bẵm (d) có bọt ra, sẽ đãi cho sạch. Chọn gạo nếp cái tốt cho sõng (e). Gạo, vò đi, để ngâm một chốc, vớt ra. Mỡ với đậu trộn vào, xôi lên (f). Phỏng nó chín hai phần còn một, thì đổ ra, quạt cho ráo, cho nguội. Đánh nước muối, tưới vào, trộn đi cho đều. Lại xát đậu vào, lại xôi lên cho chín. Xem mặt xôi nó đã chín trong mặt, lớn hạt xôi mà nhẻo (g) (chưa), thì tra đường. Nếm cho vừa. Hoặc nó còn cứng hạt xôi, (thì) lại tới nước, với tra đậu; lại xôi lần nữa. Vát (h) ra, sẽ tra đường. Hoặc nó rắn thì tra đường nước; hoặc nó nát thì tra đường tán. Tra đường vào sàng (i) mà đưa (j) cho chóng. Lấy hạt sõng, tra đường còn nóng, chớ tra nguội. Nếm cho vừa thì thôi.

Như bằng làm xôi chay, thì đừng mỡ.

chú thích : (a) Trống canh : thời-gian bằng hai giờ ngày nay. (b) Văn : cầm vào đầu ngón tay mà xát đi xát lại. (c) Khan : không ướt, không trộn nước. (d) Bẵm : mạnh, với nhiều sức. (e) Sõng : trong, bóng. (f) Câu sau diễn theo bài số 207 ; bài kia sót nhiều chữ. (g) Nhẻo : cũng viết dẻo. (h) Vát (4) : có thể đọc vớt. Hoặc là vát, âm còn trong thành ngữ vớt vát. (i) Sàng : đồ tre đan bẹt và mắt thưa, có thể dùng để rây. Đây theo bài số 207. (j) Đưa : vận chuyến sàng để rây.

2. GIÒ LỤA – số 155 và 252

Giò lụa thì chọn thịt thăn (a) đừng hôi. Lấy ngón (tay) mà văn (b) cho dẻo tốt. Chớ mua thăn già, thăn non. Như bì thì bì lợn non, cho trắng, tốt, mỏng bì. Đem về đánh muối bì cho trắng. Luộc lá chuối cho lụi (c); rửa đi. Sắp lá cho sẵn. Lét (d) thăn ra, dần (e) qua đi. Đâm cho chóng nhỏ. Phỏng cái giò thì ba đồng (f) mỡ chứ, trộn vào mà cùng đâm. Tra nước mắm cho vừa; mà bó cho chặt, mà nấu cho chín. Phỏng nấu nó, như luộc trứng chín thì nó chín. Sẽ lấy ra mà ép, mà châm (e) cho ráo.

Chú thích : (a) Thăn : thịt nạc ở dọc lưng lợn. (b) Văn : xem bài 1 , (b). (c) Lụi : héo mềm. (d) Lét (5) : có thể đọc trét, sét hoặc dẹt chăng ? ý là trải trên chỗ bằng. (e) Dần : lấy sống dao mà đập cho mềm. (f) Đồng : 1/10 lạng, chừng bằng 3,9 gam. (g) Châm :chọc thủng lá gói cho nước chảy đi.

3. NEM BẢNG – số 159 và 254

Nem bảng (a) thì lấy nửa thịt thăn (b), nửa thịt rọi (c). Chọn lấy thịt nào đừng hôi; đem về, lạng (d) đi cho hết gân. Mà thái ra từng miếng mà muối; để một chốc, nó ra nước (thì) lấy khăn vải vắt đi cho ráo. Thái cho mỏng, dần (e) cho nhỏ mà đâm. Rồi sẽ băm (f) một ít mỡ mà đâm một nơi (g) cho nhỏ. Rồi sẽ trộn lại làm một; sẽ đâm. Tra một ít cơm với thính (h)nếm cho vừa mùi, mà bóp cho đều. Với lấy một tấm thịt ba rọi (i); lấy nồi luộc vừa chín đến chứ. Rồi tra một ít mật với rượu vào thịt ấy mà bác cho vàng tốt. Rồi rửa nước lã đi; lấy khăn vải mà lau cho ráo. Rồi liền lộng (j) hết trên thịt nó đi. Lại cắt chung quanh nó đi. Rồi thái ra cho mỏng, mà rắc muối với thính cho vừa. Lấy lá vông (k) mà lót. Rồi đặt thịt ba rọi ấy quanh, thịt nem ở giữa. Dát (l) cho mỏng. Gói lá chuối ngoài cho kín, mới ngon.

Tháng sốt thì một đêm đã nên ăn. Tháng rét thì hai ba đêm mới nên ăn.

chú-thích : (a) Bảng : tên một cách làm nem, có thể là tên làng gốc, như nói cốm vòng (làng Dịch Vọng). Bảng đây trỏ làng Đình Bảng chăng? Cảo nầy chỉ mách hai thứ nem mà thôi : nem bảng và nem gói. (b) Thăn : xem bài 2, (a). (c) Rọi : thịt gồm nhiều lớp nạc và mỡ lẫn nhau ; cũng gọi thịt ba rọi (ba lớp). (d) Lạng : lấy mũi dao sắc tách thịt ra. (e) Dần : xem bài 2, (e). (f) Băm (6) : theo nôm thì âm đáng là lăm, trăm… Đoán ấy là băm, nghĩa là chặt nhỏ. (g) Nghĩa là riêng. (h) Thính : gạo rang và nghiền nhỏ. (i) Ba rọi : xem (c) trên. (j) Lộng (7) : nghĩa là khoét, như nói chạm lộng. (k) Vông : cây gỗ nhỏ mọc ở bờ rào, gỗ mềm, lá cụm ba, phẳng, mỏng, hình tim, dùng gói nem ; cũng có tên vông nem, thuộc loại Erythrina. (l) Dát(8): làm mỏng. Nếu đọc đặt thì không đắt ý.

4. CHIM ĐỒ – số 122 và 262

Làm lông. Đánh muối (cho) trắng. Mổ phanh ra, mà dần (a) qua cái chim. Lấy thịt sườn lợn, mà chặt từng miếng. Một ít nước đường, nước mắm. Phỏng ba lát gừng. Phỏng nửa quả chanh nhỏ, vắt lấy nước nó một ít. Với tương tàu, hành với cây răm. Bóp vào làm một trong cái chim ấy. Sẽ để vào bát mà đồ (b). phỏng hầu chín đem ra, bỏ xương. Lọc lấy nước với thịt chứ, mà nếm mùi (cho) vừa. Hoặc thiếu mùi chi thì thêm mùi nấy. Lại để vào, lại đồ bao giờ ăn sẽ lấy ra. Như tra tương tàu thì cũng nên.

chú thích : (a) Dần : xem bài 2. (e). (b) Đồ : nấu hấp bằng hơi nước.

5. CHIM QUAY, GÀ QUAY – số 116 và 260

Chim (hay) gà cũng làm lông. Đánh muối cho sạch. Lôi lòng đi. Mỡ với hành ép vào trong bụng nó. Xỏ bàn (a) mà quay cho chín. Lấy miếng mỡ mà phất. Nó vàng, nó dừ thì thôi.

chú thích : (a) Bàn : dụng cụ để quay đồ ăn, hình cái bàn ; gồm có cái que để xuyên qua con gà mà quay trên than nóng.

6. CÁ NHỒI – số 145 và 277

Đánh vảy đi. Mổ bên sống (a) nó ra, lấy xương ra cho hết. Rồi kéo lấy thịt nó. Rồi lạng (b) hết xương con nó đi. Để dưng (c) da nó chứ. Cá kéo ra thì đâm cho nhỏ. Phỏng ba phần cá (thì) một phần mỡ, một phần cua, một ít yến sào. Đâm vào làm một. Tra nước mắm, nước đường vào. Nướng thử nếm cho vừa. Nhồi vào (da) con cá. Lấy nước thịt sườn, nước chanh, nước mắm, nước đường, pha vào làm một. Để con cá vào bát. Sẽ đồ (d).

chú thích : (a) Sống : lưng. (b) Lạng : xem bài 3, (d). (c) Dưng: ở cạnh phần đang quan hệ; ví dụ: người dưng. (d) Đồ: xem bài 4,(b).

7. THANG CÁ – số 154

Hoặc (cá) trôi, hoặc cá chi thì cũng nên. Cá hành (a) cho tươi, mà rửa cho sạch. Mà xủi vảy nó đi. Lôi lòng đi, mà khử (b) đi dần. Mà kéo ra mà bỏ xương. Nơi đâu nó có đỏ thịt, thì cắt đi. Hễ ba cá thì một phân mỡ sống. Nhồi củ hành mà nướng. Đâm một nơi (c) Cho nhỏ. Rồi sẽ đâm lại làm một. Lấy cà cuống với nước mắm, sẽ tra vào cho vừa mùi. Rồi thì dát ra cho mỏng bằng cái đĩa ấy. Rồi luôn nấu nước lã lên cho sôi, mà tra bánh cá ấy vào. Nấu cho nó chín, thì sẽ vớt ra, mà để cho nó nguội. Rồi sẽ thái ra mỏng, để trên bát thang (d) ấy.

Nào nước nấu nó ấy, thì tra một ít sườn lợn với tôm canh (e)Cho vừa mùi chi thì thôi (f) : (tra) hoặc lá tía tô, hay là rau răm thì mặc lòng; mà thái, cũng để trên bát ấy. Hoặc có ăn kiêng thì đừng tra thịt lợn với cà cuống mà thôi. Lại cứ như phép làm.

chú thích : (a) Hành : dùng. (b) Khử: vứt bỏ đi . (c) Xem bài 3, (g). (d) Thang : món ăn thịt cá nấu với nhiều nước bản chất. (e) Canh (9) : thường đọc ngạmh (cá ngạnh); đây trỏ tôm khô dùng để nấu canh. (f) ý là : muốn gia vị thế nào cũng được.

8. MỨT CHANH – số 56 và 223

Chanh thì mài hay là gọt thì cũng nên. Rồi thì đánh muối cho bẵm (a) , cho sạch hăng. Chẻ bốn bên ra mà rửa nước lã cho sạch chua. (Tra) nước phèn cho nó vừa chát nước. Sáng ngày một lần thay nước, tối một lần thay nước; phỏng ba ngày cho nó hết nước hăng. Rồi lấy lá gai mà đâm ra cho đặc. Lấy nồi gang thịt (b) đánh cho láng. Đổ nước lá gai vào mà xếp chanh vào nồi. Một lớp chanh thì lại xếp một lớp lá gai. Bắc lên bếp nấu cho nó xanh. [Nước (c)] chưa xanh thì lại lấy lá cách (d) mà nấu; hai lần rửa đi cho sạch. Hoặc có làm mứt nào xanh, thì cứ như phép ấy mà làm. Nấu nước đường mà đảo. Đem ra vắt đi cho ráo. Lại lấy đường mà ngào cho nó đen. Liệu vừa chứ, chớ cho nó đen quá mà xấu. Phỏng ba ngày sẽ nấu nước đường khác thay nó, (thì) nó mới trong tốt. Muốn thêm mùi thì tra một ít nước hoa; liệu cho lặn (e) mùi chứ (f).

Như muốn làm ráo, đương (thì) chọn đường tốt. Các phép cũng thế ấyĐể nhỏ lửa, ngào mãi cho ráo mà thôi.

chú thích : (a) Bẵm : xem bài 1 , (d). (b) ý là : nồi bằng gang thường dùng để nấu thit. (c) Nước (10) chữa ra (11). (d) Cách (12) : theo thoạI số 56; đó là một thứ cây nhỡ trồng ở rào có lá xanh mướt, hình bầu dục rộng, có thể dùng gói nem. Thoại số 223 viết chữ (13) đọc khác tự dạng giống chữ cách trên, nhưng ý không chính xác bằng. (e) Lặn (14) (thoại số 56) và (15) (thoại số 223) : ý là không nổi mùi, không xông mùi. (f) Thoại 223 dừng ở dây, thêm đoạn sau bằng chữ bé. Còn thoại 56 thì không có đoạn sau, nhưng lại thêm chính văn sau : ” Phỏng mùi hoa hoặc làm vội bấy giờ. Ngào rồi thì nấu nước đường khác, để cho lạnh (mà) thay. Bấy giờ nó mới được trong tốt “.

Xem chừng ý có trùng điệp với trên.

9. BÁNH RÁN – số 10 và 195 + 196

Lấy gạo nếp cái cho tốt, vò cho sạch, rây cho nhỏ, rồi phơi ra. Phơi thì phơi trong gió : chớ phơi nắng mà khét. Lấy bột lọc nếp mà nghiền cho nhỏ. (Đong thì) lấy chiếc đũa mà gạt bằng miệng bát. (Lấy) bốn bằng miệng bát bột đâm (a), một bằng miệng bát lẻ, (hoặc) hai bát bột lọc cũng nên. Trộn đi. Lấy rây mà rây, chín, mời bận cho đều Nấu nước, bắc lên với dềnh (b). Đâm ra cho nhỏ, mà vắt với nước bắc ấy.(Dùng) vừa dềnh,chớ lắm mà khét (c). Sú bột thì cho rắn; chớ sú ướt mà khó rán. Lăn vừng thì lấy một ít rượu pha với nước lã. Ngửi hơi rượu, (cho) một ít chứ, chớ pha nhiều.

Khi mới rán, thì phải (d) lửa chứ, đừng cả lửa lắm. Đến khi nó đã nặng đũa (e), (thì) một tay lấy một cái bánh mà tra vào nước đường. Bẻ ra xem. (Như) ngoài nó giòn, trong thì dở mủn (f), (thì) vớt ra cho chóng. Lấy giấy mà lăn đi cho hết mỡ, kẻo khét. (Bỏ) vào còn nóng, mới tốt cái bánh. Nếm cái bánh cho vừa đường. Đem lên, lấy giấy bịn (g) cho kín. Đó là bánh pha để lâu. Có muốn cho nó mỏng vỏ, thì pha bốn bột đâm (h), hai bột nếp lọc. Ăn bấy giờ thì ngon, nhưng để chẳng được lâu. ấy là bánh rán bột bộ (i).

Bánh rán bột lọc thì chọn lấy bột chợ nó bán ấy (a). Xem bột nào tốt thì mua lấy. Lại đong bốn bằng miệng bột lọc nếp thì một bằng miệng rưỡi bột lọc tẻ. Đâm lại làm một. Rây cho đều. Dù trộn lại, dù rán, cũng như bánh bột bộ.

Rán mầu xanh thì phơi lá (k) cho ráo mà (đâm) luôn với bột. Nướng lên (l) một ít, xem vừa mầu xanh (thì) sẽ nắm mà rán. Rán thì nhận cái bánh xuống, cho mỡ lên trên. Trộn (m) Cho mau, nó mới tốt. Đến khi nó [phồng (n)] thì hơn lửa, kẻo nó dẹp xuống. Các điều cũng như bánh bột bộ.

chú thích : (a) Bột đâm : ý trỏ bột gạo nếp nói ban đầu. (b) Dềnh : thứ quả hình bầu-dục, khi chín thì vỏ vàng đỏ, đượọc dùng để nhuộm bột. Cũng có tên dành-dành, chi-tử. Cây mộc nhỏ thuộc loài Gardina. (c) Khét : nôm viết (16), chắc đều phải đọc như vậy. (d) Phải : vừa đúng mức. (e) Nặng đũa : ý là khi chọc đũa vào thì phải đè mạnh. (f) Mủn : đọc mẳn hoặc mủn, nghĩa là trạng thái hạt nhỏ rời. (g) Bịn (17) : đáng đọc bện hoặc bịn (bít), ý là gói kín. (h) Xem chú thích (a) trên. (i) Bột bộ : bài số 195 mang đề ” Bánh rán bột bộ ‘ , dứt ở dây. Đoạn nối sau là bài số 196. Cả toàn bài mang số 10, nhưng có bỏ sót một khoảng như sẽ thay sau. (j) : Đoạn nầy được chép riêng thành bài số 196 mang đề ” Bánh rán bột lọc ” Tuy tôi chưa biết chắc ý nghĩa từ bột bộ, nhưng qua hai bài số 195 và 196 thì thầy rằng trong nguyên liệu bánh rán bột bộ và bánh rán bột lọc chỉ khác nhau bằng dùng bột đâm cho bánh bột bộ, và bột chợ cho bánh bột lọc mà thôi. (m) Lá : có lẽ gai hay lá hiên mà ta thấy trong những bài khác, cũng trong trường hợp nầy. (n) Đây theo bài số 196, còn bài số 10 sót một ít chữ.

10. CHÈ NGŨ VỊ – số 18, 75, 76, 240 và 241

Tổng-luận – Trong cảo nầy có ba bài chung một tiểu-đề ” Chè ngũ vị ” số 18, số 75 và số 240. Hai số sau chung một lời. Lại có hai bài khác cũng chung một lời, số 76 và sồ 241, với đề ” Chè tháng sốt ‘ , nghĩa là chè ăn vào tháng nóng. Xét nội-dung thì ấy cũng là chè ngũ vị; mà lời cảo bài 76 và 241 lại gần lời bài 18 hơn các bài 75 và 240. Xét chung năm bài, thì thấy Hán từ vị đọc nôm là mùi; mà mùi có hai nghĩa : một là mùi ngửi hoặc nếm, hai là mầu sắc. Tuy rằng ngũ vị cốt trỏ số năm nguyên liệu của một món ăn, như nói dưa ngũ vị (bài số 244), nhưng ở đây, ngũ vị có lẽ trỏ nguyên liệu có năm thứ mầu sắc khác nhau : trắng, vàng, biếc, xanh, đỏ. Còn số nguyên liệu trong các món chè, thì lại quá số năm. Trong ba bài số 18, 76, 241, thì dùng thạch trắng, quả dềnh vàng, củ huỳnh tinh biếc, lá hiên xanh, quả hồng tàu đỏ. Ngoài đường, số 18 có dùng thêm ba nguyên liệu : hạt sen, củ lạc (đậu phụng) và hạt dưa; các số 76 và 241 chỉ dùng thêm hai nguyên liệu: hạt sen và yến sào Đến khi các bài số 75 và 240, thì lại không thông qua năm mầu, và chỉ kể sáu thực phẩm được dùng : hạt sen, củ lạc, củ mài, huỳnh tinh, hồng tàu và yến sào. Sau đây, tôi sẽ phiên âm riêng rẽ các bài ấy, rồi sẽ chú thích chung.

10a. CHÈ NGŨ VỊ (Số 18)

Nấu thạch hoa (a) lên, để trắng. Với (mùi) vàng (thì) nấu (dềnh). Với mùi biếc thì giáo (b) hoàng tinh, cũng như (làm) bánh trôi nước ấyMùi xanh thì lấy lá hiên (c) non mà tẩm đi. Mùi đỏ thì lay hồng tàu. Chọn lấy (hạt) sen, bóc ra, nhỏ tầy đầu đũa ằy. Cắt hai bên đầu ; tống ruột nó đi. Lạc hoa sinh (d) thì luộc cho chín; cắt hai đầu nó đi; chọn đường cho trắng, mà nấu nước, lọc cho trong. Hạt dưa thì rang cho vừa, xỏa (e) lên cho nó trắng, đừng rang vàng; lấy nước đường mà dầm. Thức vàng, thức biếc, thức trắng, một thức (để) một nơi, cho nó thôi (f) ra ; bao giờ hầu (g) ăn, sẽ vớt sang nước khác, sẽ trộn các thức vào làm một. Như bằng (h) cái sen, cái hồng tàu, với lạc hoa sinh, với hạt dưa, bao giờ hầu ăn, thì sẽ để sen với hồng tàu, lạc hoa sinh với hạt dưa ; chớ tra để lâu; nó giun (i) lại mà lơi (j).

10b. CHÈ NGŨ VỊ (Số 75 và 240)

Luộc hạt sen cho bở. Luộc lạc hoa sinh cho bở. Cắt hai bên đầu nó đi. Củ mài thì cắt ra từng miếng, luộc cho chín. (Lấy) một ít bột hoàng tinh quấy vào nước mà nấu lên cho sôi. Ngửi [không] còn hôi, rồi sẽ tra hạt dưa, (hạt sen), lạc hoa sinh, củ mài vào mà nấu. Bấy giờ sẽ tra đường.

Nếm cho vừa (rồi) sẽ tra yến sào vào. Vớt ra cho chóng kẻo chát yến sào. Xả (k) lên trên bát, sẽ tra hồng tàu.

10c. CHÈ THÁNG SỐT (l) (Sồ 76 và 241)

Nấu thạch hoa (a) để vậy, đừng pha đường. Cắt ra từng khổ, thái cho mỏng. Sen thì tìm sen tươi, còn non, tầy đầu chiếc đũa. Bóc đi cho hết vỏ; bỏ lõi (m) trong nó đi. Nước thì nấu lên cho trong, để cho nguội. Đường thì rửa cho sạch bụi. Đổ đường vào mà đánh với nước lã ấy cho vừa mùi.

Lảy lá hiên non cho xanh; nơi đâu nó xanh thì cắt lấy bằng đốt ngón tay. Đảo (n) cho chín. Thạch hoa (thì) nửa nấu trắng, nửa ngâm (với) dềnh (o), (rồi) nấu cho vàng. Yến sào với thạch hoa, hạt sen, lá hiên, thì đổ nước vào mà ngâm cho lâu, rồi sẽ thay nước đường khác. Bao giờ ăn sẽ tra hồng tàu.

Ấy (là) chè tháng sốt. Dẫu để cả ngày thì cũng chẳng có thiu.

Như mùi biếc thì lấy bột hoàng tinh; (hoặc) lầy nước làm xôi gấm (p) mà làm. Xem cho nó vừa mùi. Tẩm nước lã đi cho hết hôi. Lấy khăn mà vắt bột cho ráo. Lấy chén nước đóng (q) như (khi) trụng (r) bánh phân (s). (Rồi) giáo lên cho chín. Lấy lá dong mà gói, rồi cắt ra cho mỏng.

Như mùi biếc, mùi vàng, thì lấy nước đường mà dầm. Bao giờ ăn sẽ tra nước đường khác.

chú thích : (a) Thạch hoa : chát nhầy lầy từ cây rong câu, ăn được ; cũng gọi tắt là thạch ; thuộc loại Agar. (b) Giáo : bỏ vào nước sôi mà quấy cho chóng đặc. (c) hiên : thứ cỏ loài tỏi, lá bẹt dài, hoa cuống dài, hình phễu, nở thành chùm mầu vàng đỏ. Búp ăn được, gọi là kim châm. (d) Lạc hoa sinh : thường gọi tắt là củ lạc (đậu phụng) ; nghĩa chữ nho là : hoa rụng xuống đất mà sinh củ. (e) Xỏa : trải tung ra. (f) Thôi : mầu hoặc mùi của một vật ngâm, nó thấm dần vào nước. (g) Hầu : gần, sắp. (h) Như bằng : còn như. (i) Giun(18) : co lại cũng nói chun, trun. (j) Lơi (19) : rời rạc, trái với săn. Chữ nôm nầy rất gần với (20) đọc chua. Nhưng ý đây e không hợp. (k) Xả : đổ chóng ra. (l) Tháng sốt : mùa hè ; ý là chè ăn cho mát ruột. (m) Lõi : mầm xanh nằm dọc trong hạt sen, vị đắng. (n) Đảo : nấu khan và chóng với lửa nóng, vừa nấu vừa đảo trên dưới cho khỏi cháy. (o) Xem bài 9, (b). (p) Gấm : thứ lá, đâm lấy nước dùng để nhuộm xôi làm xôi gấm (số 38 và 213), hoặc là xôi biếc (các sồ 43, 210, 211 ). (q) Đóng (21) : tạo hình bằng cách nén chất dẻo vào khuôn. Đây đọc đong thì không hớp ý. (r) Trụng(22) : giúng chóng vào nước sôi. (s) Bánh phân : một thứ bánh làm bằng bột hoàng tinh hoặc bột đậu, có thể trộn với bột súng, giáo lên hoặc tráng ra (các số 5, 6 và 186).

Hoàng Xuân Hãn

(bài đã đăng trên báo Đoàn Kết  số 421, 02.1990)

NHỮNG MÓN BÁNH ĐẶC SẢN NGON NHƯNG ÍT AI BIẾT

Nền ẩm thực của Việt Nam rất phong phú, do đó, bên cạnh những món ăn nổi tiếng, phổ biến, thì còn có những món ăn vì nhiều lý do như: địa lý, hoàn cảnh sống, cách làm cầu kỳ, nguyên liệu khó tìm… mà đã trở nên rất ít phổ biến, rồi dần dần bị thất truyền. 

Sau đây là những món bánh mà khi nhắc đến tên, hiếm ai biết được nó là gì, có hương vị ra sao.

Bánh ngải​ nhân vừng

Bánh ngải là món ăn truyền thống của người Tày, Nùng, nhưng ngày nay ít có ai biết. Đây là loại bánh rất đẹp, khuôn dạng như bánh dày nhưng có màu xanh ngọc. Bánh làm từ lá ngải cứu nấu với nước tro, rồi trộn chung với cơm nếp sau đó giã nhuyễn. Bánh được gói bằng lá “mác rạng” để không bị khô. Bánh có nhân từ đường phên và vừng.

Bánh bảy lửa

Bánh Bảy lửa, ảnh Vũ Phương Thảo.

Tương truyền bánh do 1 người vợ ở Quảng Nam sáng tạo ra như một loại lương khô để chồng đem theo trên đường ra Huế ứng thí.  Nghe tên bảy lửa đủ biết mức độ công phu của món bánh này. Bánh được làm từ bột gạo, đường, gừng, trải qua bảy lần lửa, nhiều công đoạn rang, giã, sấy kĩ… Thành phẩm là món bánh có thể trữ hàng nhiều tháng. Bánh giòn tan và ngon miệng, từng là món ăn tết phổ biến ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Tuy vậy ngày nay còn ít nhà làm bánh này, một phần vì công phu, tốn sức.

Bánh chông Giao Tiến

Bánh chông là một món ăn ngày tết của cư dân ở xã Giao Tiến, huyện Xuân Thủy, Nam Định. Cách nấu bánh có một công đoạn tương tự như xôi gấc, nhưng sau khi chín xôi thì tộn đường vào rồi giã cho nhuyễn. Sau đó ép lại, cắt thành miếng hình thoi cỡ ngón tay, phơi khô, rang giòn lên rồi mới ăn. Do miếng bánh hình thoi nhọn hai đầu giống cây chông nên gọi là bánh chông.

Bánh nghệ

Từ “Nghệ” ở trong món bánh Nghệ là tỉnh Nghệ An, tuy vậy bánh đã thất truyền ở quê hương của nó. Đã có một thời, bánh nghệ phổ biến ở Sài Gòn- Chợ Lớn như một món ăn chơi, nhưng đến nay thì chắc ít dân Sài Gòn nào biết món bánh này. Bánh làm từ bột gạo nguyên chất, quấy lên rồi nén thành sợi như bánh canh, công đoạn này rất cực vì phải dùng cái nia hứng hàng chục cái bánh một đợt. Bánh ăn nguội với mắm pha, tép mỡ, xoài xanh, chả lụa, chả cá… Ngày nay, may mắn là tại đường Trương Gia Mô, thành phố Phan Thiết vẫn có một nhà biết làm món bánh này, đó là gia đình chị Ngọc Minh, với nghề làm bánh nghệ gia truyền đã được 60 năm.

Bánh cơm nếp mật

Một món ăn ngon của người dân quê Nam Định, làm từ gạo nếp nấu chín trộn với mật mía và gừng. Cơm này có thể để nguội rồi cán thành miếng ăn như ăn bánh.

Bánh khổ

Bánh khổ của người Mường rất dễ ăn và có cách làm khá đơn giản. Bánh làm từ xôi nếp giã nhuyễn, vắt ra từng miếng rồi đặt lên lá chuối, hong gió cho khô. Khi ăn, người ta phải chế biến lần nữa: nướng hoặc rán bánh lên cho thơm, dẻo. Bánh rán xong sẽ phồng lên rất ngon mắt. Bánh từng là món lễ vật thông dụng cho ngày cưới hỏi.

Bạnh Bư tổng hợp.

Chợ bà Quẹo: Lối xưa xe ngựa một thời

Chợ Bà Quẹo tọa lạc trên đường Trường Chinh (đường Lê Văn Duyệt nối dài cũ, sau 30-4 đổi là Cách Mạng Tháng Tám, sau lại đổi là Trường Chinh), đoạn gần ngã ba Âu Cơ, thuộc phường 14, quận Tân Bình.

Ðây là ngôi chợ khá đặc biệt của Sài Gòn; và với chúng tôi, chợ Bà Quẹo đã để lại kỷ niệm khó quên về người đánh xe thổ mộ, còn gọi là người xà ích.

Chợ Bà Quẹo thành lập từ năm 1967, trên khoảng diện tích hơn 2,000 m2; nhà lồng chợ nằm lọt sâu giữa hai lối nhà cửa là những quán tiệm sạp hàng; trước mặt chợ, một diện tích khá rộng rãi mở ra tới giáp mặt đường.

Hôm nay người dân Sài Gòn vẫn gọi ngôi chợ này là chợ Bà Quẹo; dù rằng sau 30 tháng 4, 1975, chợ Bà Quẹo bị đổi tên thành chợ Võ Thành Trang vào năm 1978.

Có thể nói chợ Bà Quẹo là “ngôi chợ 2 trong 1”; nghĩa là có hai bộ mặt khác hẳn nhau của cùng ngôi chợ.

Ban ngày, chợ Bà Quẹo họp chợ như mọi ngôi chợ lớn nhỏ của Sài Gòn. Ban đêm, từ 1 giờ khuya tới 5 giờ sáng, chợ Bà Quẹo mang không khí khác biệt hẳn.

Ðấy là cảnh tấp nập rộn rã giữa thinh lặng đêm khuya: hoạt động bốc dỡ-chuyển hàng-sắp xếp-giao nhận rau quả của một chợ đầu mối. Hàng rau quả là nông sản từ các vùng ngoại thành như Hóc Môn, Củ Chi, Thủ Ðức, Long An; chuyên chở về nhà vựa tại chợ Bà Quẹo. Nhà vựa là những tiểu thương có quầy, sạp bán rau quả trong chợ Bà Quẹo; cũng có nhiều người chỉ tới đây buôn bán rau quả từ lúc nửa đêm tới mờ sáng mà thôi.

Những người mua hàng rau quả ở chợ đêm Bà Quẹo là những tiểu thương bán lẻ mặt hàng này, ở những chợ lân cận thuộc các quận Tân Bình-Tân Phú-Phú Nhuận-Bình Tân thuộc nội ô Sài Gòn.

Cũng khoảng thời gian đêm hôm khuya khoắt này, hình ảnh đặc biệt ở mặt tiền chợ Bà Quẹo, là những người bán rong rau quả trong thành phố. Họ đi xe đạp tới chợ Bà Quẹo; ở yên sau xe đạp của họ là 2 lồng sắt gắn chặt chẽ vững vàng để chất chứa rau quả. Trong rổ đặt phía trước ghi-đông xe là cái cân đồng hồ để bán hàng; trên ghi-đông và quanh sườn xe máng móc đầy những túi những bao bịch ni-lông.

Cảnh tượng trên diễn ra trong khoảng thời gian nhất định, từ 1 giờ khuya tới 5 giờ sáng như nói trên; sau đó lâu nhất là nửa giờ, chợ đêm trả lại hoàn toàn cho chợ ngày; như thể chưa từng có chợ đêm trước đó ở Bà Quẹo. Trước mặt chợ Bà Quẹo lúc sáng tinh mơ ấy sạch sẽ tinh tươm; có thể nói, không một cọng rác cọng rau nào còn vương vãi trên nền đất láng trơn như mới tráng xi-măng.

Gần ba mươi năm trở về trước, chúng tôi thường tới uống cà phê ở khu vực chợ Bà Quẹo. Trong quán cà phê bình dân mở khuya trên đường phố, đối diện chợ Bà Quẹo, tôi uống ly cà phê vợt (còn gọi là cà phê bít-tất) và ngắm nhìn cảnh tượng chợ đêm khuya. Thời gian ấy thật thú vị; chú mục nhất, không gì khác hơn những chiếc xe thổ mộ. Ðấy là những chiếc xe ngựa thồ hàng, từ Hóc Môn chuyên chở rau quả tới chợ Bà Quẹo.

Ở Sài Gòn khoảng thời gian gần ba mươi năm trở về trước, chỉ có ở vùng chợ Bà Quẹo, chúng tôi còn được ngắm nhìn những chiếc xe thổ mộ, những người đánh xe ngựa, và những con ngựa.

Chúng tôi không thể quên một buổi sáng tinh mơ, một buổi sáng trong khoảng thời gian cách đây gần ba mươi năm; ngồi uống cà phê cùng một bàn với bác xà ích đã trọng tuổi. Con ngựa phía trước xe thổ mộ đậu dưới tàng cây lớn gần quán cà phê. Con ngựa gầy còm đứng cúi đầu, cái bụng căng phồng. Tôi nói với bác xà ích: “Con ngựa của bác ăn no quá sức!” Bác xà ích cười nhẹ, nói: “Nó có thai đó.” Rồi bác xà ích nhìn tôi, cái nhìn thiện cảm, hỏi có phải tôi là nhà văn hay không.

Tôi lắc đầu, nói với bác xà ích rằng tôi không phải nhà văn; nhưng là một độc giả rất mê đọc văn chương. Bác xà ích lộ hẳn vẻ vui mừng, nói: “Chú em có tin tui cũng biết làm văn không? Mà tui chỉ biên những bài văn ngắn, bài nào cũng ngắn ngủn. Tui chỉ làm văn về ngựa không hà. Chú thử nghe bài tui mới biên…”

Nói xong, bác xà ích lấy ngay cuốn tập vở để trong túi áo nhà binh của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, đưa tôi đọc một trang mở sẵn, hình như bác xà ích vừa viết xong. Tôi còn giữ bài văn này, vì sau đó bác xà ích đã dọc rời trang viết để tặng tôi; có ký tên (và lời đề tặng) dưới bài văn là Phạm Văn Vạng, ở Hóc Môn.

Nhà lồng chợ Bà Quẹo. (Ảnh: Nguyễn Ðạt)

Gần ba mươi năm, thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ da diết bùi ngùi về bác xà ích ấy. Tôi không thể biết bây giờ bác xà ích ấy ở chốn nào; bác xà ích ấy còn trên cõi đời này, hay đã trở thành người thiên cổ?

Sau buổi nhận bài văn của bác xà ích tặng, tôi không có dịp gặp bác xuất hiện lần nào nữa; cũng như một thời gian không lâu sau, tôi cũng không thấy chiếc xe thổ mộ nào thồ hàng rau quả tới chợ Bà Quẹo.

Và mỗi khi tôi nhắc hai tiếng xà ích, ai cũng hỏi tôi xà ích là cái gì. Ðã từ lâu, thồ hàng rau quả tới chợ Bà Quẹo là những xe có động cơ, nghĩa là xe hơi bốn bánh trở lên; kém nhất cũng là xe hai bánh có gắn máy.

Quán cà phê bình dân tôi từng ngồi ở đối diện chợ Bà Quẹo mất dạng từ nhiều năm rồi. Các quán cóc quanh chợ cũng không còn quán nào pha chế cà phê bằng vợt nữa.

Báo Mỹ khen món cao lầu của Hội An

(Dân trí) – Cao lầu từ lâu đã được nhắc đến như món ăn đặc trưng góp phần làm nên cái hồn ẩm thực của phố Hội. Cao lầu của Hội An không đụng hàng với món sợi của bất cứ vùng miền nào.


Cao lầu, món đặc sản của Hội An

Tờ Huffington Post của Mỹ vừa đăng tải một bài viết giới thiệu những món đặc sản vùng miền đáng để du khách khám phá trong các chuyến du lịch của mình, trong đó có món cao lầu của Hội An.

Tác giả viết: “Trên thế giới có biết bao món ăn nổi tiếng, chỉ cần nhắc đến món ăn đó là người ta biết là của quốc gia nào, chẳng hạn như Sushi của Nhật Bản hay mì Ý…Tuy nhiên, có những món ăn vùng miền vô cùng hấp dẫn mà có thể bạn chưa từng được biết tới. Chúng không nổi tiếng trên toàn thế giới nhưng khi đã thưởng thức rồi thì bạn sẽ khó quên hương vị của chúng.”

Trong danh sách những món ăn vùng miền ấy có món cao lầu của phố cố Hội An cùng với nhiều món ăn khác như món cơm trộn Ochazuke của Nhật Bản; món Gà 65 của Ấn Độ; món hầm Pozole của Mexico; món Ful medames (đậu fava nấu các loại gia vị và dầu ôliu) của Ai Cập và Sudan.

Các món ăn khác được nhắc đến là Khao Soi của Lào và Thái Lan (là sự pha trộn của mì trứng chiên giòn hay mềm, thịt gà, nước cốt dừa, nghệ, chanh, rau mùi và hẹ tây); món súp thịt được nấu trong một hốc đá dưới đất Pachamanca của Peru và món thịt khô Biltong của Nam Phi.

Mới nhìn cao lầu trông giống. như mì, nhưng không phải mì. Tinh túy của món cao lầu là sợi mì, thường được chế biến rất công phu. Đầu tiên, gạo thơm đem ngâm vào nước tro, mà phải là tro nấu củi lấy ở tận Cù lao Chàm, đảo cách Hội An 16 km, khi ngâm mới tạo ra được sợi mì có độ giòn, dẻo, và khô.

Sau đó lọc kỹ, xay thành bột; nước xay gạo phải là nước ở giếng Bá Lễ do người Chăm làm cách đây cả ngàn năm, mới được nước ngọt, không bị phèn và mát lạnh. Tiếp tục dùng vải bòng nhiều lần cho bột dẻo, khô, cán thành miếng vừa cô, xắt thành từng sợi, đem hấp nhiều lần rồi phơi khô để làm sợi mì. Qua nhiều lần xử lý như vậy nên dù cao lầu có để qua đêm cũng không sợ ôi thiu.

Người ta thường ăn cao lầu với giá nhúng trong nước sôi nhưng không được quá mềm. Thêm ít rau sống, được lấy ở làng rau truyền thống Trà Quế nổi tiếng ở Hội An. Giá trụng đổ ra tô, xếp mì lên trên, thêm vài lát thịt xíu rồi đổ tép mỡ (da heo chiên giòn) và một muỗng mỡ heo rán để sẵn bên lò nước. Với thịt xíu, chỉ dùng thịt heo cỏ, thịt săn chắc, thơm, vừa mỏng da vừa nhiều nạc và nước của nó mới có vị ngọt. Khi ăn, cao lầu cho cảm giác sựt sựt của sợi mì, đủ mùi vị chua, cay, đắng, chát, ngọt của rau sống, hương vị của mắm, bột thơm, nước tương… và tép mỡ vỡ tan trong miệng.

Nhiều người cũng có tham vọng làm cao lầu ở nơi khác, nhưng tất cả đều thất bại. Có người nói rằng chính nước giếng Bá Lễ và tro của cù lao Chàm và rau sống Trà Quế mới làm nên món ẩm thực đặc trưng này.


Phố cổ Hội An
Một đặc trưng khác của cao lầu là muốn ăn món này phải leo lên lầu cao của quán. Khi xưa các doanh nhân buôn bán nơi phố cảng vì muốn trông coi hàng hóa của mình nên thường leo lên lầu cao của quán. Điều này có thế thấy ở các quán cao lầu Hội An. Ngồi trên lầu cao ngắm cảnh đẹp và thưởng thức món ngon, đây có thể là xuất phát của tên gọi cao lầu.Ngày nay cao lầu được bán ở nhiều nơi trong nước, thậm chí ở cả nước ngoài  và người đã thưởng thức cao lầu Hội An sẽ thấy hẫng hụt vì thấy vị của nó có cái gì đó thiếu đậm đà như vị ở phố Hội.Đến nay, vẫn còn một số tranh cãi về nguồn gốc của món cao lầu: nhiều người cho rằng món này của người Hoa, còn người Nhật thì cho rằng nó giống mỳ udon của họ nhưng khác về hương vị và cách chế biến.Theo tác giả của bài viết trên Huffington Post, có thể ở đâu đó vẫn còn một số lời tranh luận về nguồn nguồn gốc của món cao lầu, nhưng chất lượng của nó hoàn toàn là điều không phải bàn cãi.

Cao lầu không nổi tiếng như nhiều món ăn khác ở Việt Nam nhưng nó thật đáng để thưởng thức khi đến Hội An vì đó là món ăn đặc trưng góp phần làm nên cái hồn ẩm thực nơi đây. Người ta vẫn thường bảo nhau: Nếu chưa ăn Cao Lầu thì coi như chưa tới Hội An.

5 chợ đầu mối trái cây lớn nhất Việt Nam

Sau đây là 5 ngôi chợ đầu mối trái cây lớn nhất Việt Nam được Viện Nghiên cứu Cây ăn quả Miền Nam và Hiệp hội Trái cây Việt Nam phối hợp với Vietkings giới thiệu:
1.Chợ Long Biên (Hà Nội)

Chợ đầu mối trái cây Long Biên nằm ở một vị trí thuận lợi trong việc lưu thông hàng hóa và rất gần trung tâm Thủ đô Hà Nội ( phường Phúc Xá, quận Ba Đình). Chợ có diện tích 27.148 m2, tổng số hộ kinh doanh là 1.087 hộ, trong đó ngành hoa, trái và rau củ quả chiếm 77%.

Chợ Long Biên họp về đêm, bất kể trời nắng hay mưa, cứ đến 22 giờ là chợ bắt đầu hoạt động. Trên đoạn đường đê Trần Nhật Duật, hàng chục chiếc xe chở đầy ắp hàng hóa (nhiều nhất là trái cây các loại) liên tục đổ hàng xuống chợ để chuẩn bị cho một cuộc mua bán, mối lái… nhận, giao hàng tiếp tục chuyển đi nơi khác tiêu thụ.

Trái cây ở chợ Long Biên rất nhiều chủng loại, từ: Thanh Long, cam, quýt, bưởi, mãng cầu (quả na), mít, dứa, nhãn, vải, dưa hấu… không có thứ gì ở cao nguyên có mà đây không có, không có loại trái cây gì ở miền Namcó mà ở đây không hiện diện. Mỗi ngày, lượng hàng hóa trái cây và nông sản vận chuyển đến chợ từ 250 đến 300 tấn. Đây là con số thống kê chính thức của Ban quản lý chợ Long Biên. Rầm rộ xe chở hàng đến, xe chở hàng đi… Mỗi ngày có hàng trăm xe tải lớn nhỏ ra vào như vậy. Đó chưa kể đến hàng ngàn xe thô sơ ra vào lấy hàng tấp nập…

2.Chợ đầu mối Thủ Đức (TP.HCM)

Chợ đầu mối trái cây Thủ Đức nằm ở phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức, ngay cửa ngõ phía Đông TP.Hồ Chí Minh đi các tỉnh miền Đông, miền Trung và Tây Nguyên. Đây là chợ đầu mối nông sản thực phẩm và trái cây lớn nhất ở TPHCM.

Với lợi thế diện tích rộng (20 ha), nằm tại ven đường xuyên Á, chợ đầu mối Thủ Đức hàng ngày đón nhận hàng trăm tấn hàng hóa nông sản và rau củ quả các loại từ miền Đông, miền Tây Nam bộ chở đến. Những thương nhân kinh doanh tại chợ đầu mối Thủ Đức, mỗi đêm, doanh số mua bán lên đến hàng trăm triệu đồng. Riêng việc kinh doanh trái cây ở chợ đầu mối nông sản thực phẩm Thủ Đức, phần lớn là các hộ kinh doanh ở chợ đầu mối trái cây Cầu Muối ( Quận 1) di dời về đây. Mặt hàng trái cây ở chợ đầu mối Thủ Đức cũng đa chủng loại. Mùa nào trái đó: thanh long, chôm chôm, sầu riêng, măng cụt, bưởi, cam, quýt, nho, ổi, mận… không biết cơ man nào kể cho hết. Người mua kẻ bán, công nhân bốc xếp, nhân viên trật tự… hoạt động liên tục suốt đêm ngày để hàng hóa được phân phối đi khắp nơi trong nước…

3.Chợ nổi Cái Răng (Cần Thơ)

Chợ nổi Cái Răng là chợ trên sông, gần cầu Cái Răng, thuộc quận Cái Răng, cách trung tâm thành phố Cần Thơ chừng 6 km đường bộ. Đây là chợ đầu mối chuyên mua bán sĩ hoặc trao đổi các mặt hàng nông sản, thực phẩm, đặc biệt là trái cây ở miền Tây Nam bộ.

Chợ nổi Cái Răng hình thành từ xa xưa, lúc phương tiện giao thông đường bộ chưa phát triển, đi lại chủ yếu bằng ghe thuyền. Ngày nay, giao thông đường bộ đã phát triển nhưng chợ nổi trên sông phải vì thế mà giảm đi, ngược lại càng phát triển mạnh hơn.

Những mặt hàng trái cây ở chợ nổi Cái Răng đều đã được phân loại chất lượng, kích cỡ đồng đều. Chợ thường họp từ lúc trời còn tinh mơ và đến khoảng 9, 10 giờ sáng thì vãn khách dần. Giờ cao điểm từ 7 – 8 giờ. Mỗi năm chợ chỉ ngưng hoặc động vào các ngày Tết Nguyên Đán và Tết Đoan Ngọ (mùng 5 tháng 5 âm lịch).

Các loại trái cây như: dừa, sầu riêng, bưởi, chôm chôm, nhãn, dưa hấu sơ-ri, dứa (khóm), đu đủ, sa-pô-chê…trên những ghe, xuồng hằng hà sa số…

4.Chợ nổi An Hữu – Cái Bè (Tiền Giang)

Nằm dọc theo cù lao Tân Phong trên sông Tiền thuộc thị trấn Cái Bè (Tiền Giang), chợ nổi trên sông An Hữu là nơi tập trung mua bán hàng hóa trái cây của cả vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Đặc biệt ở đây, các mặt hàng trái cây chuyên canh của tỉnh Tiền Giang như: vú sữa Lò Rèn, bưởi da xanh, dứa(khóm) Tân Lập, quýt Cái Bè, cha-pô Mặc Bắc, cam sành… được giới thiệu đến các thương lái và người mua rất nhiều.

Nhờ địa bàn thuận lợi (nằm ở đoạn sông Tiền giáp ranh 3 tỉnh Tiền Giang, Vĩnh Long và Bến Tre) nên chợ nổi An Hữu luôn tấp nập thuyền bè mua bán.

Chợ nổi An Hữu-Cái Bè họp suốt ngày với không khí nhộn nhịp, vui vẻ trên sông nên được du khách ưa thích tham quan. Vì vậy, chợ nổi ở đây ngoài việc mua bán, chợ còn là điểm để khách du lịch lui tới. Công ty Cổ phần Du lịch Tiền Giang nắm bắt được điều đó nên tổ chức nhiều tua du lịch tham quan chợ nổi An Hữu-Cái Bè thuộc chương trình 3, 4, 5. Khách du lịch ngoài việc thưởng ngoạn cảnh đẹp trên sông quê, nhìn ghe thuyền tấp nập qua lại, còn được thưởng thức tại chỗ các loại trái cây tươi rói thơm ngọt hoặc mua về làm quà cho gia đình và người thân.

5.Chợ đầu mối Cao Lãnh (Đồng Tháp)

Chợ đầu mối trái cây Cao Lãnh nằm tại ấp 2, xã Mỹ Hiệp, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Chợ có diện tích trên 5 ha, với những công trình bảo quản trái cây như: kho lạnh, trung tâm bảo quản trái cây tươi, khu nhà lồng, cơ sở chế biến trái cây

Tất cả những công trình thiết kế, xây dựng ở chợ đầu mối Cao Lãnh có kinh phí lên đến 19 tỷ đồng.

Theo Ban quản lý chợ đầu mối Cao Lãnh thì lượng trái cây các loại tiêu thụ hàng ngày ở chợ từ 120 – 150 tấn. Ngoài ra, giống xoài cát Hòa Lộc là loại trái cây hiện nay cũng được trồng nhiều ở Cao Lãnh (56, 2 ha).

Hiện nay, đến mùa xoài, ngoài các loại trái cây thường xuyên có ở chợ như: bưởi, sầu riêng, vú sữa, khóm, dừa,  chuối…, nơi đây còn có xoài cát Hòa Lộc với hàng trăm tấn bỏ mối đi khắp nơi.

Việt Nam là nước có khá nhiều chợ. Chợ tỉnh, chợ thành phố, chợ quận, huyện, chợ phường, xã, chợ tự phát…, ít ra cũng phải trên vài ngàn ngôi chợ, chưa kể đến hệ thống siêu thị đang phát triển mạnh ở các đô thị. Điều đặc biệt nhất ở chợ Việt Nam là, bất cứ chợ nào dù lớn hay nhỏ cũng đều có gian hàng bán trái cây. Chợ đầu mối chuyên kinh doanh trái cây và hàng nông sản trên toàn quốc không nhiều, chỉ tập trung vào những vùng có nhiều trái cây, nông sản ở Đồng bằng sông Cửu Long và hai thành phố lớn là: Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Từ chợ đầu mối, hàng hóa sẽ được phân bố đi khắp các chợ trong khu vực để phục vụ người tiêu dùng. Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu Cây ăn quả Miền Nam và Hiệp hội Trái cây Việt Nam, có 5 ngôi chợ đầu mối lớn nhất Việt Nam

Bún từ Bắc vô Nam (phần 1): Từ miền Bắc

BÚN TỪ BẮC VÔ NAM là loạt bài khảo cứu hay và thú vị của tác giả Phanxipang đã cho đăng rải rác trên Tài Hoa Trẻ trong nhiều số vào năm 2001. Đây là một trong những bài nghiên cứu công phu hiếm hoi về bún – món sợi có nhiều biến tấu nhất Việt Nam này. Do bài khá dài, để các bạn tiện theo dõi, chúng tôi xin chia ra làm 3 phần: Từ miền Bắc, qua miền Trung, vô miền Nam.
Bún từ Bắc vô Nam

Phanxipăng

 

Phở và hủ tíu / hủ tiếu hiện quá phổ biến đối với dân ta. 
Hai món ấy dù đã Việt hoá tối đa song bắt nguồn từ Trung Hoa. 
Có ý kiến cho rằng một trong những thức ngon thuần Việt, 
hoàn toàn mang gốc gác bản địa, chính là bún.

 

 

Qủa thật, lui tới nhiều tiệm ăn của người Hoa, tôi chưa hề thấy các món bún. Thực phẩm được gọi “bún Tàu” hoặc “bún trong” thực chất là miến dong nhỏ sợi, chứ nào phải bún đúng nghĩa. Hãy cùng tôi ngao du một chuyến từ Bắc vô Nam, bạn sẽ xiết bao thích thú khi khám phá ra rằng bún Việt Nam sao quá phong phú về chủng loại, lại cực kỳ hấp dẫn vì mỗi miền một vẻ, mà vẻ nào cũng tuyệt diệu vô ngần.
PHẦN 1: MIỀN BẮC 

 

Từ phố Hàng Bún ở Hà Nội

 

Nội thành Hà Nội hiện có phố Hàng Bún dài 484m, chạy từ đường Yên Phụ tới phố Phan Đình Phùng. Ngày nay, phố Hàng Bún thuộc quận Ba Đình; còn xưa nằm trong địa bàn thôn Yên Ninh, tổng Yên Thành, huyện Vĩnh Thuận. Sách Đường phố Hà Nội do Nguyễn Vinh Phúc và Trần Huy Bá hợp soạn đã giải thích: “Sở dĩ có tên là Hàng Bún vì thời xưa thôn Yên Ninh có nghề làm bún nổi tiếng, sợi nhỏ và trắng. Cho tới năm 1945 ở đây vẫn còn có nhà làm bún”.  (1)

 

Xem lại Hoài Đức phủ toàn đồ, tức bản đồ Hà Nội do Lê Đức Lộc và Nguyễn Công Tiến vẽ, được nhiều nhà nghiên cứu xác định thời điểm ra đời vào niên hiệu Minh Mạng XII tức năm Tân Mão 1831 (2) , thấy phố Hàng Bún đấy rồi. Nhiều khả năng tên phố xuất hiện rất lâu trước thời điểm ấy nữa. Điều đó chứng tỏ bún là thức ăn quá đỗi quen thuộc của bà con Kẻ Chợ nói riêng, của nhân dân Bắc Bộ nói chung tự thuở xa xăm. Bao đợt điều tra điền dã folklore học và dân tộc học bấy nay cũng ghi nhận vai trò không thể thiếu của bún trong một số lễ hội dân gian cổ truyền ở khu vực châu thổ sông Hồng.

 

 

Do những biến động lịch sử, nền văn hoá ẩm thực Việt Nam đã ít nhiều chịu ảnh hưởng ngoại bang theo cả hai xu hướng hỗn dung: tích cực lẫn tiêu cực. Thập niên 1950, viết Miếng ngon Hà Nội(3) , Vũ Bằng nêu nhận xét: “Có thứ thì bắt chước Tàu, có thứ thì bắt chước Tây, có thứ lại quảng cáo ăn ngon như đồ Mỹ, đồ Anh, nhưng rút cục lại Hà Nội có một món quà không theo ai cả, đặc biệt Việt Nam, mà tôi dám chắc không có người Việt Nam nào không ăn, mà tôi lại dám chắc thêm rằng không có người Việt Nam nào không thích: đó là quà bún”. Thiển nghĩ nhận xét kia chẳng những đúng với vùng núi Nùng sông Nhị, mà còn phù hợp trên phạm vi toàn quốc tính đến phút giây này.

 

Giống hệt Thạch Lam trước kia viết trong Hà Nội băm sáu phố phường  (4) , nhắc về quà bún Hà thành thì y như rằng ai nấy đều nhớ ngay thứ “quan trọng và đặc điểm nhất” đồng thời “phổ thông nhất” là món bún chả. Vũ Bằng cũng thế. Cố nhiên, tôi đây chẳng khác. Nghe đồn rằng thuở xưa có ông đồ cuồng chữ ở nhà quê khăn gói lên Đông Đô, mới ngửi mùi bún chả liền khoan khoái ứng khẩu:

  • Ngàn năm bửu vật đất Thăng Long,
    Bún chả là đây có phải không?

 

  • Hiện tại, hầu như khắp các quận huyện nội ngoại thành Đông Đô – Đông Kinh, đâu cũng có cửa hiệu hoặc gánh bán rong món “bửu vật” này. Cứ ngửi thấy mùi chả nướng bốc thơm phưng phức thì biết ngay. Có hai thứ chả: nướng và băm. Nhà văn kiêm nhà báo Vũ Bằng chứng tỏ sành điệu khi khuyên chúng ta dùng chung cả hai trong một bát nước chấm: “Thứ chả băm mềm đi với thứ chả miếng sậm sựt tạo thành một sự nhịp nhàng cho khẩu cái”. Ghé mấy hiệu bún chả nổi tiếng ở ô Quan Chưởng, ở Cửa Nam, ở phố Gia Ngư và phố Hàng Mành, hoặc dãy hàng bún chả trong các chợ khắp thủ đô, hầu như thấy ít khi vắng khách. Ăn với chả, đâu phải bún gì cũng đạt, mà người ta phải chọn loại bún mảnh sợi được cuộn từng lá mỏng. Còn nước chấm là nước mắm pha dấm theo tỉ lệ thế nào để đừng quá mặn, đừng quá chua, lại điểm thêm mấy múi chanh, tí tỏi, tí tiêu, tí ớt, êm lừ cả thần khẩu.
Một món bún khác thuộc diện mà tác giả cuốn Thương nhớ mười hai  (5) nhiệt liệt ngợi ca rằng “đẹp mắt, được nhiều người thèm, có thể đã đạt tới cái đích nghệ thuật ăn ngon của người Việt”. Ấy là bún ốc.

 

 

Ở thủ đô, bún ốc hiện hữu “trên từng cây số” qua bao hiệu to, quán nhỏ, cùng loạt gánh bán rong. Muốn nấu ngon món này, trước tiên cần có ốc nhồi hoặc ốc bươu béo ngậy. Còn yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng bát bún, đích thị nồi nước dùng. Phải xử lý nguyên vật liệu làm sao để nước dùng nổi đủ các vị chua – cay – mặn – ngọt – béo – bùi, lại bật đủ tập hợp sắc màu của ốc – sả – gừng – khế – cà chua – giấm bỗng – hành mỡ. Rồi phải chọn loại bún trắng nõn, sợi tròn to vừa cỡ. Bát bún mới dọn ra, lập tức kích thích con tì con vị bằng mùi thơm mê ly khiến thực khách cầm ngay đôi đũa gắp thêm xà lách, tía tô, kinh giới với rau muống chẻ nhỏ mà xơi cấp kỳ khi món ăn còn nóng giãy. Xì xụp bún ốc mùa nào cũng được, song thiên hạ bảo mùa hè thì hợp nhất vì tin rằng ốc sống dưới bùn nước nên tính mát, dẫu rằng chén xong bát bún, ai nấy đều vã mồ hôi, thậm chí có người “đầm đìa châu sa” vì cay và nóng!

 

Tôi ghé lại Hà Nội dịp hè, gặp nữ phóng viên K. đang tòng sự tại Đài Tiếng nói Việt Nam. Nàng ngọt ngào mời:
– Anh ra thủ đô gặp lúc thời tiết oi bức quá. Mình lên phủ Tây Hồ ăn bún ốc giải nhiệt đã nhé. Mọi chuyện khác, tính sau.
Dãy hàng quán nối dài san sát trên đường vào phủ Tây Hồ – nơi thờ công chúa Liễu Hạnh – hiện là khu bán bún ốc đông khách nhất Hà thành. Có lẽ nơi đây nhờ địa thế rộng rãi, thoáng mát, thơ mộng. Chứ nổi tiếng lâu đời vẫn là bún ốc Khương Thượng.

K. tỏ ra rành rẽ:
– Bún ốc Hà Nội được coi là ngon còn có các quán trên đường Mai Hắc Đế, hoặc trong ngõ Đồng Xuân và ngõ Mai Hương, anh à.
Ngồi ngắm K. thưởng thức bún ốc tới ngưỡng “chăm chú thiết tha”, tôi lặng nghĩ: chẳng rõ vì sao với cái nguyên liệu mộc mạc quê mùa là thứ động vật đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi
 (6) , thị dân Hà Nội lại chế biến thành món đặc sản đầy sức quyến rũ nhường kia?
Biết tôi muốn tìm hiểu chuyện bếp núc, bà chủ quán bún ốc vui vẻ giãi bày:
– Tuyển cho được ốc đạt tiêu chuẩn để nấu cũng kỳ công lắm nhé. Tốt nhất là ốc ở thôn Pháp Vân và ốc đầm Nhời với đầm Bân chuyển về cơ.
Thôn Pháp Vân thuộc huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. Còn đầm Nhời với đầm Bân thuộc huyện Ba Vì ở tỉnh Hà Tây kề cận. Tôi sặc cười khi nghe K. vừa hít hà, vừa đọc ca dao:

 

Lòng em những muốn lấy vua, 
Nhưng còn tiếc ốc, tiếc cua đầm Nhời
 
Lòng em toan lấy ông… giời,
 
Nhưng còn tiếc ốc đầm Nhời, đầm Bân.


Xưa, ngoại thành Thăng Long có ngôi làng mà tên gọi đã gắn liền với một món bún ngon: bún mọc. Đó là làng Mọc, còn gọi Kẻ Mọc, trước thuộc tổng Nhân Mục, bây giờ nằm trong địa bàn quận Thanh Xuân. Vốn là quê hương của nhà thơ Đặng Trần Côn, tác giả kiệt tác văn chương bằng chữ Hán Chinh phụ ngâm, mảnh đất kia còn sản sinh ra món bún khá thanh với nước dùng ninh xương lợn, thả thêm thịt ba chỉ, giò viên, nấm hương. Làng nay đã đô thị hoá, song tên nhiều đường phố vẫn bảo lưu một số địa danh thuở nào: Quan Nhân, Chính Kinh, Khương Đình, Khương Trung, v.v. Thế nhưng, quà bún mọc truyền thống thì ở đây tiếc thay, chẳng còn quán xá thật lừng danh! Khách sành điệu bây giờ lại thường tìm đến bún mọc Tô Lịch và bún mọc Đông Cô ở ngõ Báo Khánh, cạnh hồ Hoàn Kiếm.

 

Trong tuyển tập Văn hoá ẩm thực Hà Nội  (7) , giáo sư Vũ Ngọc Khánh khẳng định: “Quê gốc bún thang là từ Hà Nội và cũng thịnh hành ở Hà Nội”. Vậy nhưng, phóng viên báo Doanh Nghiệp là Nguyễn Anh Dũng rủ tôi đi chơi phố Hiến (Hưng Yên) với ý kiến phản biện xem chừng hữu lý:
– Xét gốc tích, chưa biết bún thang được sản sinh ở Hà Nội trước hay ở Hưng Yên trước. Có tài liệu chứng minh rằng từ thế kỷ XIII, ở làng Hoa Dương dưới ấy, người Hoa đã làm ra nhiều món ngon như kẹo thiều châu và bánh khảo phục linh, còn người Việt thì có bánh cuốn, bánh tôm, và nhất là bún thang đặc sắc. Ở Hưng Yên, bún thang còn có thể xuất hiện sớm hơn, nhưng lừng lẫy suốt cả trăm năm nay thì khắp nước chẳng đâu bằng quán bún thang bà Xã Kỷ nơi phố Hiến. Đã thẩm định bún thang tại quán bà Xã Kỷ, nhà văn Nguyễn Tuân đánh giá là “ngon nhất Bắc Kỳ”, nên cụ đặt thêm cho quán cái tên “quán bún thang Thế Kỷ” đấy!

 

Để minh chứng, Nguyễn Anh Dũng xoè tờ tạp chí Văn hoá nghệ thuật ăn uống số 1 phát hành tháng 11-1987. Tôi đọc, thấy những điều Dũng vừa phát biểu đã được xác nhận rành rành qua văn bản.

 

Chế biến bún thang khá cầu kỳ bằng nhiều nguyên liệu. Lươn và thịt gà xé nhỏ, ướp gia vị rồi xào nghệ cho vàng ươm. Trứng tráng cùng giò lụa đã thái chỉ sẵn. Nước dùng thì hầm kỹ xương lợn, xương gà, cua đồng, tôm he, nấm, củ cải. Bún phải chọn loại mảnh sợi, chần sơ nước sôi rồi mới bỏ vào bát. Đoạn đặt lươn, gà, trứng, giò lụa lên trên, cùng nhúm ruốc thịt / thịt chà bông và đôi lát trứng muối. Rắc thêm rau mùi, răm, húng, hành, ngò, xong mới chan nước dùng nóng sốt. Chưa hết. Đầu bếp còn điểm vào tí mắm tôm cà cuống cho bát bún ngát hương đượm vị đã, lúc ấy mới dọn mời thực khách. Bún thang chính là một kiểu bún thập cẩm thấm đẫm phong vận xứ Bắc. Thoạt nhìn bát bún thang, người người đã cảm thấy thích mắt vì sự phối sắc cực kỳ “technicolor” (8) . Ăn, lại càng khâm phục cổ nhân quá thành thục phương pháp phối kết “nhiều trong một” chứ đâu phải đợi tới bây giờ!

 

Hoàng Lan – một người đẹp ở quận Lê Chân của thành phố Hải Phòng – nói với tôi:– Bố mẹ em bảo trước kia, chỉ trừ ít quán tạithứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến và tại vài thành phố khác nữa như Hải Phòng với Nam Định là có bán bún thang. Chứ khắp miền Bắc, dân chúng chỉ dọn bún thang ngày giỗ chạp hoặc dịp Tết nhất, vì đấy là món cao cấp mà. Bây giờ thì bún thang bán thoải mái nhiều nơi.

– Vậy đất Phòng có quà bún nào phổ thông tiêu biểu?
Nghe tôi hỏi, Hoàng Lan đáp ngay:


– Chắc chắn là bún ngan, anh ạ.

 

Ngan, có địa phương gọi vịt xiêm, quả là thực phẩm thường gặp tại Hải Phòng. Dạo quanh phố cảng, tôi thấy nhiều quán treo biển “bún ngan, miến ngan”. Tương cận chủng loại này, có lẽ nên kể thêm bún vịt và búnngỗng. Tất cả đều sử dụng thuỷ cầm “đa mao thiểu nhục tắc phù” thuộc họ động vật Anatidae làm nguyên liệu chủ công, thường hầm với măng để ăn bún. Măng tre nhiều dạng (tươi, khô, chua) nếu hầm cùng thịt lợn mà xơi bún, ta lại có món bún măng riêng.

 

 

 

Ngược lên Lạng Sơn, bạn sẽ gặp lắm “biến tấu” khá độc đáo từ bún vịt cũng như bún măng. Chẳng hạn bún vịt quay măng chua ở ga Đồng Mỏ hoặc chợ Kỳ Lừa. Xuôi về Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình, bạn cũng nên nếm qua bún sườn cùng bún lòng cho biết.

 

Nhà giáo Trần Quốc Đỉnh, bút danh Trần Nam Xuyên, biệt hiệu Đinh Như Điển, là người gốc Hà Nam nhưng sinh trưởng tại Nam Định. Đinh Như Điển gật gù:

 

– Thiên hạ quen ăn tiết canh mí lị cháo lòng. Tớ thì khoái bún lòng hơn. Bún dẻo thơm, ngồm ngoàm với lòng lợn, gồm dạ dày, ruột non, cổ hũ, tim, gan, phổi, và mấy lát dồi chấm mắm tôm đánh chanh ớt ngầu bọt. Vừa xực vừa đưa cay. Ối giời ơi! Tuyệt!Nói vậy, song tại thành phố Nam Định, Trần Quốc Đỉnh lại đèo tôi vào một quán nằm sâu trong ngõ hẻm ngoằn ngoèo nơi phố Hai Bà Trưng – xưa là phố Vải Màn – để thưởng thức bún cá rô đậm đà hương vị đồng quê. Gặp mùa cá rô nặng bụng trứng thì món bún này càng thêm béo thơm ngọt.

 

Một món bún cực kỳ đơn giản song dân Hà Nội khoái lắm: bún đậu. Đậu phụ / đậu khuôn / tàu hủ được rán dòn nóng bỏng, chấm mắm tôm, kẹp rau kinh giới, ăn với bún đã cắt thành từng vuông nhỏ. Quà bình dân này thu hút đông đảo khách nhiều thành phần, từ học sinh, sinh viên, đến công nhân viên chức, văn nghệ sĩ, thương nhân. Các gánh bún đậu bên lề đường Thái Hà và Lý Quốc Sư, trưa nào cũng đông nghịt. Đắt khách nhất ắt là quán bún đậu trong ngõ Phất Lộc, con hẻm nằm song song với phố Nguyễn Hữu Huân, nơi mà học giả Nguyễn Hiến Lê (1912 – 1984) từng chào đời.

 

Trước khi cùng nhau lên đường vào miền Trung, K. đưa tôi rẽ vào ngõ Phất Lộc để ăn bún đậu và luận chuyện bún. Cô nàng nói:

 

– Anh ruổi rong nhiều tỉnh thành, chắc đồng ý với em rằng cho tới nay, bún đậu là món độc nhất vô nhị của Hà Nội. Tuy chế biến quá đơn giản, nhưng trừ Hà Nội ra, chẳng đâu có bún đậu cả. Còn khối món bún khác, như bún riêu, bún bung, bún dấm cá và canh bún thì theo em biết, ba miền đất nuớc đều không thiếu, nhất là bún riêu.Tôi hỏi:

– K. biết bao nhiêu kiểu bún riêu?
Nàng cười lúng liếng:
– Gì chứ khoản ăn uống, em giỏi ra phết nhé. Bún riêu cua này. Bún riêu tôm này. Bún riêu cá này. Bún riêu ốc này. Bún riêu nhót này. Tiếc là em chưa hân hạnh được anh mời thử bún riêu… tim ấy thôi!

 

 

Xem tiếp: QUA MIỀN TRUNG

 

 

____________ 

Chú thích:


(1) NXB Hà Nội, 1979, trang 157. 
(2) Bản đồ ấy được vẽ theo tỉ lệ 1:500 trượng trên giấy croquis, gồm nhiều mảnh ghép, kích cỡ toàn thể 175 x 190cm, bấy lâu nay được bảo lưu ở Hà Nội, trong kho tài liệu của Viện Thông tin Khoa học xã hội thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Viết bài Bàn về niên đại của bản đồ mang tên Hoài Đức phủ toàn đồ in trong các sách Đối thoại sử học (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2000), Đối thoại Thăng Long – Hà Nội(NXB Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, 2009), Bùi Thiết cho rằng bản đồ ấy không ra đời vào năm 1831 mà có thể muộn hơn. Phổ biến thời gian qua là Hoài Đức phủ toàn đồ được vẽ lại vào năm 1956 bởi Biệt Lam Trần Huy Bá. Ngày 24-9-2010, Viện Thông tin Khoa học xã hội chính thức công bố bản scan từ bản gốc Hoài Đức phủ toàn đồ. 
(3) Thoạt tiên, công bố trên báo Mới tại Sài Gòn theo dạng nhiều kỳ, từ năm 1950 đến năm 1952; in thành sách lần đầu tiên năm 1955 bởi NXB Nguyễn An Ninh ở Sài Gòn, sau được nhiều cơ sở tái bản. 
(4) Thoạt tiên, công bố trên tờ Ngày Nay tại Hà Nội theo dạng nhiều kỳ; NXB Đời Nay ở Hà Nội in thành sách lần đầu năm 1943, khi Thạch Lam (1910 – 1942) đã qua đời, sau được nhiều cơ sở tái bản. 
(5) Sách này của Vũ Bằng (1913 – 1984) in lần đầu tiên bởi NXB Nguyễn Đình Vượng tại Sài Gòn năm 1972. 
(6) Trích thơ tương truyền của nữ sĩ Hồ Xuân Hương. 
(7) NXB Lao Động, Hà Nội, 1999, trang 49. 
(8) Technicolor là danh từ của nhiều ngôn ngữ (Anh, Pháp, Đức, Ý, Thuỵ Điển, Phần Lan, Hà Lan, Ba Lan, Rumania, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, v.v.), mang nghĩa kỹ thuật phim màu. Tiếng Nga phiên chuyển thành текниколор. Tiếng Hoa phồn thể ghi 特藝七彩, giản thể ghi 特艺七彩, bính âm phát te yi qi cai, âm Hán-Việt là đặc nghệ thất thái. 
(9) NXB Làng, California, 1997; NXB Trẻ tái bản, 2000. 
(10) NXB Khai Trí, Sài Gòn, 1970, sau được nhiều cơ sở tái bản. 
(11) Bộ sách Đại Nam nhất thống chí được dịch sang tiếng Việt do Á Nam Trần Tuấn Khải và Tu Trai Nguyễn Tạo vào năm 1960, Nha Văn hoá Bộ Quốc gia giáo dục tại Sài Gòn ấn hành; tới năm 1982, Phạm Trọng Điềm lại dịch sang Việt ngữ, Đào Duy Anh hiệu đính, Viện Sử học ấn hành, sau có một số cơ sở, chẳng hạn NXB Thuận Hoá ở Huế, tái bản. 
(12) Mùng 5 tháng 5 âm lịch. 
(13) Phiên âm danh từ tiếng Pháp goût, nghĩa là khẩu vị. 
(14) Phiên âm danh từ tiếng Pháp air, nghĩa là khí, dáng, điệu. 
(15) Đã đăng trên Tài Hoa Trẻ 310 (7-4-2004), Phong Cách 1 (10-2006), Thực Đơn Khoẻ Đẹp 3 (4-2010). 
(16) Lê Thần Tông có huý danh Lê Duy Kỳ (1607 – 1662), trị vì giai đoạn 1619 – 1643. 
(17) Đại Nam quấc âm tự vị gồm hai tập. Tập 1 in năm 1895. Tập 2 in năm 1896. (18) NXB Khoa Học Xã Hội ở Hà Nội in lần đầu vào năm 1998, sau được một số cơ sở, chẳng hạn NXB Đà Nẵng, tái bản.

 

Đã đăng Tài Hoa Trẻ 167 ~ 169 (2001) 
Đăng lại trên Khoa Học & Phát Triển 82 (10-2010)

http://chimviet.free.fr/amthuc/phanxipang/phanxipn_bun.htm – http://chimviet.free.fr/amthuc/phanxipang/phanxipn_bun.htm
 

 

Hủ tiếu gõ, ngõ Sài Gòn

Đã từ lâu, hình ảnh cái xe hủ tiếu còi cọc đậu nơi hè phố với một dáng vẻ khiêm nhường hết cỡ, đã trở thành một cái gì đó không thể thiếu trong những câu chuyện ăn uống Sài Gòn.

Người ta dùng mấy tiếng: Hủ tiếu gõ, gọn lẹ hơn: Mì gõ… để gọi và cũng là để mô tả cái biểu tượng giản dị nhưng cũng đầy cá tính riêng biệt đó. Cá biệt, ở cách bán, cách ăn, cho tới hương vị. Xa xăm, hoài niệm hơn một chút: cá biệt ở cái tiếng gõ. Hơn chục năm trước, tiếng gõ lóc cóc, hoặc leng keng, hoặc lạch cạch, thay cho tiếng rao mời hủ tiếu bằng miệng, vẫn rất thịnh hành. Tiếng gõ có tiết điệu, hình như mang theo tâm trạng người gõ, lúc vui vẻ, lúc buồn bã, khi hững hờ, khi hớn hở… và thường mang đến cho người nghe cảm giác…đoi đói. Để cho tới hôm nay, người ta sẽ cảm thấy lao xao quá đỗi, mỗi khi nghe ra tiếng gõ hũ tiếu trong một khoảng lặng mịt mờ nào đó của đời sống thành thị. Vì bây giờ, không mấy ai đi gõ nữa, có lẽ tại Sài Gòn đã quá ồn ả cho những tiếng gõ đó chăng?

Hết gõ, nhưng vẫn gọi hủ tiếu gõ, chính là vì chưa một ai vội quên đi cái âm điệu mộc mạc đáng yêu đó. Ừ thì hết người đi gõ, nhưng xe hủ tiếu vẫn còn đâu đó thôi. Ừ thì, tạm biệt một thứ dư âm lãng mạn, ta đi ăn hủ tiếu, ăn sợi hủ tiếu phơi khô rồi lại trụng nước, ta ăn miếng bò viên thái mỏng hết cỡ, ta húp muỗng nước lèo ngòn ngọt thơm mùi hẹ ớt xì dầu, chớ đâu có ăn âm thanh lóc cóc leng keng, tuy rằng, nói thật thì vẫn hơi buồn một chút.

Có ai đã thống kê có bao nhiêu xe hủ tiếu gõ ở Sài Gòn? Cái sự thống kê thực khá là thơ mộng, ngộ nghĩnh và có lẽ không khả thi mấy. Mỗi xe hủ tiếu gõ lặng thầm hùng cứ một góc phố, một ngõ hẻm, Sài Gòn có bao nhiêu con phố, bao nhiêu con hẻm, thì hãy gom lại đi, rồi cộng với một con số dễ thương nào đó cho dư ra, càng nhiều càng tốt, để tạm gọi là biết số lượng xe hủ tiếu đang ngang dọc, dọc ngang.

Tính sơ sơ như vậy, để thấy sự gắn bó vô địch của hủ tiếu gõ đối với mảnh đất Sài Gòn. Tại sao có hiện tượng trên? Là bởi đất Sài Gòn, tuy lắm khi mang tiếng đắt đỏ, phồn hoa lấp lánh chi chi đó, nhưng không hề, Sài Gòn thực chất rất giản dị, bụi bặm, và rẻ rề. Ai chưa tin, thì cứ ghé vô một quán hủ tiếu gõ – không tốn kém gì hết, kể cả xăng, vì nó cách nhà bạn quá lắm vài trăm thước.

Gọi là quán cho dễ gọi, chứ chỉ là mấy cái bàn kèm theo mấy bộ ghế cóc. Ngay cạnh đó là xe hủ tiếu bốc khói, thoang thoảng mùi nước lèo. Gọi là quán, nhưng người ngồi ăn luôn ở tình trạng lộ thiên hết cỡ, may mắn mới có cái bạt che, lỡ mà gặp trời mưa, tấm bạt èo uột kia không đỡ nổi, nước bắn vô tô hủ tiếu từ vài chục đến vài trăm giọt, gọi là nêm thêm đôi chút hương vị Sài Gòn. Vậy đó, để cho biết bao người, nói mê mẩn thì hơi quá, nhưng gần thì ăn, xa thì nhớ, nhớ thì thèm. Cái hương vị đặc trưng của hủ tiếu gõ, của Sài Gòn, mà không một quán ăn hoàn chỉnh nào tái hiện nổi, nó cứ nhẹ nhàng, bâng quơ… như một bài thơ, một tiếng hát giang hồ không cầu kỳ gọt dũa, vậy mà ngấm, nhiều khi ngấm tới trái tim, nói hơi quá, nhưng còn biết nói sao? Còn biết nói làm sao cho nó bớt tình cảm hơn, khi mà cái tô hủ tiếu được cả Sài Gòn công nhận về độ dễ ăn ấy, chỉ có giá là… mà thôi, không ai nỡ nói giá tiền của một món quà, ở đây, là món quà giành cho những người yêu Sài Gòn.

Nói về hủ tiếu gõ thì còn nhiều chuyện lắm, nhưng rồi, nói chỉ là nói, nghe chỉ là nghe, không thay thế được cho hành động. Hôm nay, ngày mai, ngày mốt, hoặc ngày kia, bạn sẽ phải đi ăn một tô, cho nhớ. Nhớ rồi thì để giành đó, sau này sẽ có lúc dùng tới, đó là khi bạn được một người bạn đầy thú vị nào đó gợi nhắc về một Sài Gòn mà ai cũng ưa thích, đó là một Sài Gòn rất dân dã, chịu chơi mà gần gũi vô cùng…

 Trần Khiêm

NHỮNG MÓN NÊN ĂN VÀO DỊP TRUNG THU

Tết Trung thu đến vào giữa mùa thu, khi những thức ngon vật lạ đang độ dồi dào. Trong dịp Tết, gia đình quây quần vui vẻ, cùng nhau thưởng thức món ngon bên mâm cỗ ấm cúng. Vậy ta nên lựa chọn những món nào vừa ngon vừa phù hợp với tiết khí, mang lại sức khỏe cho cả gia đình.

Bánh trung thu

Tất nhiên, món ăn truyền thống không thể thiếu là những chiếc bánh trung thu. Bánh trung thu vốn là chiếc bánh truyền thống có từ lâu đời của dân tộc. Dịp tết Trông trăng về, không khí mùa thu trở nên vô cùng mát mẻ và dễ chịu sau thời gian dài những ngày hè nóng nực, oi bức. Gia đình lại quây quần bên nhau, cùng nhau thưởng thức những chiếc bánh trung thu thơm ngon. Bánh trung thu đặc trưng có hình trong tượng trưng cho trăng tròn, có vị vô cùng ngon miệng và hấp dẫn. Bánh cũng có đầy đủ dưỡng chất cho sức khỏe.

Khoai môn

Với phong tục xưa, ăn khoai môn có tác dùng diệt ác, trừ ta và tôn sùng cái thiện. Qua đó, việc ăn khoai môn vào ngày tết trung thu có ngụ ý muốn xua tan điều không may và câu mong một vụ mùa sắp tới may mắn.

Ốc

Mỗi dịp trung thu, ốc thường rất ngon, bởi ốc lúc đấy rỗng ruột, không sinh sản nên không có con, nhiều thịt. Trong ốc cũng chứa nhiều Vitamin A có tác dụng bổ mắt. Đó chính là lí do mà người xưa quan niệm rằng ăn ốc vào mùa thu có thể giúp sáng mắt. Bây giờ, nhiều người, nhiều gia đình vẫn giữ được tập tục ăn ốc vào ngày tết trung thu.

Món chế biến từ ngó sen

 

1381993_10151795979683229_1727725283_n

Ngó sen là thứ nguyên liệu đặc trưng của mùa thu dành cho ngày tết trung thu. Dùng ngó sen, hoa quế trộn vào các thức ăn tạo ra hương vị của món ăn mới, hấp dẫn và có hương vị thơm ngon hơn rất nhiều. Các hương vị của ngó sen, hoa quế hòa quyện tao ra cảm giác thoang thoảng của mùa thu, làm bữa cơm đoàn viên của gia đình thêm phần ấm cúng, yêu thương nhau nhiều hơn. Ngoài ra, ngó sen còn biểu tượng cho sự cát tường, ăn ngó sen trong dịp tết trung thu nghĩa là sự đoàn viên.

Món ăn truyền thống

Trung thu được coi như cái tết thứ 2 của dân tộc, ngày mà gia đình bên nhau, cùng nhau thưởng thức các món ăn truyền thống và nhớ về những nét văn hóa lâu đời của dân tộc. Bên cạnh đó, các món ăn dân tộc được dâng lên ông bà, tổ tiên, đất trời cũng là một tập tục đầy ý nghĩa.

(st)

“Truyền thuyết” về bánh mì Sài Gòn, món ngon đường phố số 1 thế giới

Bánh mì là món ăn chính của phương Tây, xét về mặt biểu tượng thậm chí được đồng nhất với thánh thể của chúa Kitô: Bánh mì là bí nhiệm nhỏ, rượu vang là bí nhiệm lớn. Có lẽ, bánh mì đã xuất hiện ở xứ ta trước cái mốc 1859, nhưng được biết đến nhiều là sau khi đội quân viễn chinh chiếm thành Gia Định.

 

Lịch sử xuất hiện món bánh mì tại Sài Gòn:

Bánh mì là món ăn chính của phương Tây, xét về mặt biểu tượng thậm chí được đồng nhất với thánh thể của chúa Kitô: Bánh mì là bí nhiệm nhỏ, rượu vang là bí nhiệm lớn. Có lẽ, bánh mì đã xuất hiện ở xứ ta trước cái mốc 1859, nhưng được biết đến nhiều là sau khi đội quân viễn chinh chiếm thành Gia Định.

Ngoài người Pháp, cách làm bánh mì(hay còn gọi là bánh mì Baguette) đầu tiên được người Hoa tiếp thu, sản xuất bán ra thị trường và trong số khách hàng mua bánh mì thời kỳ đó có cả người Việt: Bồi bàn, thông ngôn, thầy lý có lẽ là những người nếm bánh mì đầu tiên; kế đó là công chức tân trào, rồi đến tầng lớp Tây học, thị dân và dần dần tỏa rộng phổ biến cả thành thị lẫn nông thôn.

Loại thức ăn này tồn tại trong cái nhìn của dân ta là bánh – hiểu là món ăn chơi, không phải là thực phẩm thường xuyên như cơm, thế nhưng dần dà đã trở thành “cơm tay cầm”, tức không ăn bằng chén đũa và ăn bánh mì thay cơm được định danh theo kiểu nói lóng là “thổi kèn”, hàm nghĩa là ăn tùng tiệm qua bữa, không đầy đủ đàng hoàng như bữa cơm thường lệ. Thế mà đến nay, các loại bánh mì đều có đủ mặt (bánh mì rế, bánh mì đũa, bánh mì cóc…) và việc ăn bánh mì có nhiều biến tấu đa dạng.

Bánh mì ăn theo kiểu Tây có cơm Tây, bánh mì ăn với súp, bittết, ốp-la (oeufsurplat), bánh mì ôp-lết (omelette: trứng rán), bê-cơn (bacon của Ăng lê). Có thể kể thêm cách ăn bánh mì với patê, jămbông, xúc xích, bơ, mứt.

Khởi thủy của bánh mì Sài Gòn cũng như tất cả bánh mì ổ ở Việt Nam chính là bánh mì Baguette do người Pháp mang đến những năm đầu thế kỷ 19. Những sự biến đổi về hình thức cũng như chất lượng đến cách chế biến phong phú cho bánh mì Sài Gòn đã nói lên nhu cầu ẩm thực cầu kỳ của người Sài Gòn. Trước năm 1975, với chương trình tài trợ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa bộ giáo dục đã chu cấp cho các trường tiểu học tư thục và công lập một bữa ăn nhẹ với bành mì và sữa tươi, sữa thì do hãng sữa Fore Most cung cấp và bánh mì do các lò cung cấp.

Đứng trước nhu cầu đó, giới sản xuất bánh mì Sài Gòn coi đây là một thách thức “tuyệt diệu”. Những lò gạch truyền thống theo kiểu Pháp từ những năm của thập niên 50-60 thiếu khả năng đáp ứng, sang những năm đầu 70 được thay thế dần bằng những loại lò điện, tiêu biểu như “Matador” hay “Anwator” của Nhật được biết qua tiếng Anh là deck ovens, là loại lò có nhiều tầng/ngăn nướng. Sau năm 1975 kinh tế tư nhân bị tiêu diệt (1975-1986) nhu cầu cung cấp điện bị hạn chế tối đa, một số lò điện và lò gạch chỉ hoạt động dưới dạng hợp tác xã và sản xuất “chui/lậu” ra thị trường, cũng từ đó xuất hiện một loại bánh mì có tên “bánh mì lò thùng phi/phuy”, người dân Sài Gòn sống trong thời “bao cấp” đều biết đến “danh xưng” bánh mì thùng phuy (lò được chế biến từ những thùng phuy 200l, lò có 2 phần chính: phần vỏ bên ngoài được dùng nguyên vẹn 1 thùng phuy).

Tiệm bánh mì đầu tiên tại Sài Gòn

Tiệm bánh mì Hòa Mã năm 1960

 

Gần ngã tư Cao Thắng – Nguyễn Đình Chiểu có một tiệm bán bánh mì nhỏ với bảng hiệu cũ kỹ, phai màu theo năm tháng. Bánh mì Hòa Mã đã tồn tại 50 năm kể từ ngày thành lập. Nhiều người khẳng định chủ nhân ở đây là người đầu tiên bán những ổ bánh mì thịt kiểu Sài Gòn.

Bà Nguyễn Thị Dậu, chủ nhân của hiệu bánh mì Như Lan hiện nay, cho biết ngày xưa bà rất mê bánh mì Hòa Mã. Lúc nhỏ, bà thường đến mua bánh mì ở đây và ước ao ngày nào đó mình cũng có một cửa hàng bán bánh mì như ý thích.

Sài Gòn từ trước năm 1958 đã có những cửa hiệu bán bánh của người Pháp. Họ bán bánh ngọt, bánh mì theo gu Pháp để phục vụ chủ yếu dân Tây. Bánh mì Tây là loại đặc ruột, tùy hình dáng mà được gọi tên (bánh mì gối là do tròn lớn như cái gối…). Và thịt nguội được bán riêng theo nhu cầu của người mua.

Năm 1954, vợ chồng ông Lê Minh Ngọc và bà Nguyễn Thị Tịnh di cư vào Nam. Trước đó, bà Tịnh đã làm cho hãng thịt nguội chuyên cung cấp sản phẩm cho các nhà hàng Pháp ở Hà Nội. Khi vào Sài Gòn, hai ông bà đã có sẵn ý tưởng mở cửa hàng bán bánh mì, thịt nguội để cung cấp cho người Việt trong khu vực. Thế là năm 1958, cửa hàng bánh mì thịt nguội mang tên Hòa Mã (tên một làng ở ngoại ô Hà Nội) tại số 511 Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu, Q.3). Sau đó hai năm, tiệm dời về số 53 Cao Thắng cho đến nay.

Ban đầu, tiệm cũng bán bánh mì riêng, thịt nguội riêng, ăn tại chỗ hoặc mang về. Nhưng người mua thường là công chức, thợ thuyền, sinh viên, học sinh không có nhiều thời gian vào buổi sáng để nhẩn nha ngồi ăn ở tiệm. Thế là Hòa Mã làm ổ bánh mì vừa đủ cho suất ăn sáng dài hơn gang tay, nhét thịt, chả lụa, pa–tê vào giữa để người mua tiện mang theo vào nơi làm việc, lớp học.

Lúc đó, tiệm Hòa Mã gọi một ổ bánh mì thịt của mình là cát–cút, có lẽ dùng theo từ Pháp casse-croûte, tức bữa ăn lót dạ, bữa ăn qua loa (thật ra, tên gọi đúng của bánh mì kẹp thịt là sandwich). Giá bán một ổ là 3 – 5 đồng, ổ lớn có bơ tươi thì 7 – 10 đồng.

Ngày xưa, các vị công chức ở vùng Bàn Cờ, cư xá Đô Thành rất thích ăn bánh mì Hòa Mã. Bà Tịnh vốn xuất thân làm thịt nguội cho hãng Tây nên vẫn giữ gu Pháp cho bánh mì Hòa Mã suốt 50 năm. Không ít người ở nước ngoài về thăm quê hương thường ghé lại Hòa Mã để thưởng thức hương vị bánh mì thịt không thể nào quên.

Hương vị bánh mì Sài Gòn

Bánh mì thịt kiểu Sài Gòn bắt đầu định được dáng vẻ, hương vị riêng của mình. Vì ổ bánh mì vừa đủ cho một khẩu phần ăn nên không cần lớn lắm, nhưng vỏ bánh phải giòn, ruột bánh đặc vừa phải để bột không quến khi nhai làm mất ngon.

Người miền Nam thường thích cái gì cũng có tí rau. Vì vậy ổ bánh mì được cho thêm vài lát dưa leo, củ cải trắng, cà rốt cắt sợi ngâm chua, thêm vài cọng hành, ngò để có hương  thơm, vài khoanh ớt cay vừa ăn vừa hít hà mới khoái.

Ăn ổ bánh mì thịt có đủ mùi thơm giòn của vỏ bánh, vị ngọt của bột mì, béo của bơ, hương vị thịt, chả, pa–tê như một bản phối tròn trịa sắc màu nhưng không hề ngán bởi có rau dưa tươi mát. Và điều quan trọng của ổ bánh mì thịt Sài Gòn là ngon, rẻ, tiện lợi cho tất cả mọi tầng lớp.

Một thời gian sau, nhiều hiệu bánh mì thịt bắt đầu xuất hiện ở thành phố. Bánh mì không dừng lại ở món điểm tâm nữa, nó được dùng cả ở bữa trưa, chiều, tối.

Hằng ngày những chiếc xe được sắp đầy những ổ bánh vàng ươm thơm phức và được chở đi khắp mọi nẻo đường khắp Sài Gòn để phục vụ cho người dân Sài Gòn. Có lẽ bánh mì là một món ăn không thể thiếu và không thể không bắt gặp ở Sài Gòn.

Ngoài bánh mì kẹp thịt nguội thì ở Sài Gòn bạn còn có thể bắt gặp những biến tấu của nhân kẹp bánh mì với các loại như:

Bánh mì thịt nướng: Nhân bánh mì được làm từ thịt heo ướp với các loại gia vị và đem nướng lên , ăn kèm với dưa chua và nước mắm, món này các bạn có thể bắt gặp ở khắp nẻo đường Sài Gòn trên những chiếc xe bán bánh mì dạo.

Bánh mì xíu mại: Món này được người Hoa ở Sài Gòn chế biến mang một nét đặng trưng với thứ nước sốt cà huyền bí và màu sắc hấp dẫn của những viên xíu mại chắc chắn sẽ làm xiêu lòng mọi thực khách từ già tới bé

Bánh mì ốp la: Món bánh mì này là một trong những món khoái khẩu của giới học sinh, sinh viên, vị thơm và béo của trứng hòa quyện cùng vị chua ngọt của dưa chua và độ giòn của bánh mì làm biết bao giới trẻ si mê, vừa rẻ lại vừa bố và thơm ngon.

Bánh mì chả cá: Những miếng chả cá nóng giòn vàng ươm được nhồi vào trong ổ bánh mì nóng giòn thì quá tuyệt

Bánh mì heo quay: Heo quay giòn rụm mà ăn chung với bánh mì giòn sẽ tạo ra những âm thanh nghe rất vui tai và hương vị cực kì ngon.

 

Bánh mì Việt – món ăn đường phố ngon nhất thế giới

Được ưu ái giữ nguyên tên tiếng Việt, bánh mì Việt Nam được các báo nước ngoài giới thiệu là một trong những món ăn đường phố ngon nhất thế giới. Vào năm 2011 từ “banh mi” được đưa vào từ điển danh tiếng của Oxford.

Bánh mỳ Việt Nam được giới thiệu là một trong những món đường phố ngon nhất thế giới.

Chuyên trang du lịch The Gardian miêu tả, tại Việt Nam ổ bánh dài được nướng qua trên than hồng cho giòn lớp vỏ. Người ta mổ chiếc bánh ra, thoa một ít sốt mayonnaise, patê, sau đó nhồi thịt, rau ngâm chua, rau sống vào, có thể chan thêm nước tương, gia vị cay.

“Một điều bí mật mà không mấy người biết là món sandwich ngon nhất thế giới không phải được tìm thấy ở thành phố Rome, Copenhagen hay New York mà ở Việt Nam”, bài báo viết.

Xét về nguồn gốc, bánh mì Việt Nam là sản phẩm giao lưu hóa ẩm thực của nhiều quốc gia. Chẳng hạn chiếc bánh mì nướng rất giống với các loại bánh mì Pháp, trong khi thành phần nguyên liệu gồm xá xíu, thịt lợn nguội lại có nguồn gốc từ Trung Quốc. Riêng các loại thảo mộc và gia vị thì rõ ràng là đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Giá trung bình của một ổ bánh mì khoảng 15.000 đồng.

 

Theo banhmi.odau.com

5 ĐẶC SẢN TỪ SÂU TUYỆT NGON CỦA ẨM THỰC VIỆT

Ẩm thực Việt rất đa dạng và đặc sắc, và dĩ nhiên trong đó có không ít những món khó làm quen. Những món từ sâu sau đây là một ví dụ.

Rươi

Rươi là một giống hải trùng có nhiều ở Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình… Tuy vậy, món ăn lại nổi tiếng và quen thuộc với người Hà Nội. Về hình dáng, rươi trông gần giống đỉa lai rết bởi thân hình nhũn nhũn nhưng rất nhiều chân. Khi sống, rươi mềm mềm đủ mầu xanh, đỏ, vàng, xám vằn vện trong lớp nhớt quánh như hồ, sặc mùi tanh. Với hình dáng đó, nó không chỉ khiến trẻ em mà du khách cũng phải xanh mặt.

Thế nhưng, sau khi qua chế biến, kết hợp cùng một số nguyên phụ liệu khác, con rươi đáng sợ chuyển mình thành đặc sản thơm ngon khó quên với các món như chả rươi, rươi hấp, rươi xào củ niễng, rươi kho, mắm rươi, rươi khô, rươi đúc trứng…

Những con rươi sống đủ sức làm xanh mặt người “yếu vía”.
 

Thế nhưng món chả rươi ngon lành lại có mãnh lực khó cưỡng.

Sâu măng

Sâu măng là loại sâu sống trên cây măng và là đặc sản của huyện Mường Lát (Thanh Hóa). Sâu măng to bằng đầu đũa, dài cỡ 2 đốt ngón tay. Cách săn sâu khá đơn giản, vào khoảng tháng 9, tháng 10, người săn sâu chỉ cần mang theo dao và giỏ đi một vòng quanh rừng nứa. Những bụi nứa có cây măng nào cao khoảng đầu người có biểu hiện héo ngọn, thân cong, mắt u thì hạ xuống, rồi đổ sâu trong ống nứa vào giỏ.

Có nhiều cách chế biến sâu măng nhưng món ngon nhất, đơn giản và hấp dẫn là xào lá chanh. Giá bán sâu măng ngay tại thị trấn Mường Lát vào mùa thu hoạch có giá từ 150.000 – 200.000 đồng/kg.

Sâu măng có màu trắng đục, thon dài.
 

Không chỉ hấp dẫn ở vị ngọt, béo, đặc sản kinh dị này còn “lôi cuốn” thực khách ở hương thơm, vị giòn khó cưỡng.

Sâu chít

Sâu chít là côn trùng sống trong cây chít và là niềm tự hào về đặc sản đặc biệt địa phương của người dân Tây Bắc. Với nhiều công dụng tốt cho sức khỏe, sâu chít được xưng tụng là “đông trùng hạ thảo của Việt Nam”.

Cách bắt sâu chít khá đơn giản. Người thu hái sẽ lựa chọn những cây chít có dấu hiệu bệnh, không thể ra hoa, chẻ đôi ngọn để moi sâu ra, thả vào chậu rượu nhạt để sâu không bị biến chất. Cách sử dụng phổ biến nhất của sâu chít là ngâm rượu, ngoài ra còn có thể sao khô, nấu cháo.

Ngọn chít có sâu được bày bán để giữ nguyên hương và chất của đặc sản.
 

“Đông trùng hạ thảo của Việt Nam” không chỉ dành riêng cho đàn ông.

Sâu cát (sá sùng)

Gọi là sâu cát vì nó thường sống sâu trong cát và có hình dáng giống với loài giun, còn gọi là trùn biển, sá sùng. Sâu cát được tìm thấy nhiều ở vùng bờ biển Quảng Ninh, nhất là các xã Minh Châu, Quan Lạn.

Muốn bắt được sá sùng, bạn phải ra biển thật sớm, rồi lần theo hàng triệu vết bò ngoằn ngoèn đến hang và đào đào sâu từ 10 – 20 cm là có (gần trưa có lúc phải đào sâu tới 60 – 70 cm). Khi còn sống, trùn biển màu nâu đỏ có ánh bạc; con to dài khoảng 4 tấc, con nhỏ dài hơn 2 tấc; trên thân có nhiều bó cơ nên di chuyển linh hoạt.

Thoạt trông con trùn biển còn sống ngọ ngoậy trong thùng, chưa chắc ai dám ăn song sau khi qua chế biến như sá sùng xào với tỏi tươi, người dân vùng biển Hạ Long gọi là mồi xào hay rang chấm với tương ớt, điểm thêm rau dấp cá, rau thơm và uống với bia thì ăn hoài không ngán. Nếu không thích các món sá sùng tươi sống, bạn có thể phơi khô rồi chế biến tùy ý.

Sâu cát đã được sơ chế sạch…
 

  
Và những món ăn ngon lành từ loại đặc sản không ai muốn ăn sống này.

Đuông

Đuông, ấu trùng của sâu, là một trong những đặc sản khó cưỡng của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Có hai loại đuông là đuông dừa và đuông chà là với kích thước và màu sắc khác nhau.

Cách bắt đuông khá đơn giản, cứ thấy cây dừa nào héo ngọn, vàng lá chặt đi là sẽ tìm thấy đuông. Mỗi cây dừa/chà là như thế có hàng trăm con đuông. Cách thưởng thức kinh dị nhất của đặc sản này là đuông sống “tắm” nước mắm – dành cho những tay sành ăn hay “kiên gan”. Riêng với những người mới tập ăn hay “yếu vía”, các món như đuông lăn bột chiên, đuông nướng, đuông luộc nước dừa, đuông hầm… là món tủ.

Đuông “tắm” nước mắm là cách thưởng thức đặc biệt của đặc sản này.

Theo Infonet

10 MÓN CƠM NGON NỔI TIẾNG CỦA NGƯỜI VIỆT

Món cơm Với người Việt Không được coi là một loại thức ăn mà thường coi là món chủ lực để ăn no trong các bữa ăn. Tùy vùng miền có rất nhiều loại cơm và biến thể của cách nấu.


1. Cơm gà – Hội An
 
Chưa ăn cơm gà xem như chưa tới Hội An. Cách nói có phần cường điệu ấy có lẽ xuất phát từ lòng tự hào khi đề cập đến cơm gà – một thứ hương vị quê nhà bình dị, khó quên của người dân phố Hội.




Cơm gà đơn giản là cơm nấu ăn với gà luộc nhưng cái đặc sắc là những yếu tố trong món ăn bình dị này như cơm, gà, nước chấm, đồ chua ăn kèm đều mang hương vị, phong cách ẩm thực rất riêng của miền Trung.

Cái đặc biệt của món cơm gà xứ Hội bắt nguồn từ nét riêng của cách chế biến thịt gà theo “gu” miền Trung, nghĩa là gà xé nhỏ, bóp thấm với hành tây, rau răm và gia vị. Cái khéo của người làm là khiến miếng thịt mang thơm thơm, cay cay nhưng vẫn không bở thịt và mất mùi gà.

Nước dùng gà được dùng để nấu cơm nên hạt cơm không trắng mà ánh một sắc vàng nhẹ, căng tròn, ngọt lịm vị gà. Với phong cách nhỏ nhẹ của người miền Trung, món cơm gà được bày trong chiếc *a nhỏ chỉ đủ làm lưng bụng thực khách. Đĩa cơm thường trang trí thêm ít lá bạc hà, rau răm, những lát hành tây trắng nõn, tương ớt đỏ tươi, muối tiêu lấm chấm, ăn kèm với loại tương ớt sền sệt, cay xé lưỡi theo khẩu vị của người địa phương.

Có một cách khác làm món cơm gà, nhưng người vùng Tam Kỳ – Quảng Nam hay Đà Nẵng mới thường chế biến theo cách này. Thịt gà không xé sợi mà chặt thành từng miếng vừa phải, vàng ươm. Gà không chỉ luộc, đôi khi còn được chiên giòn. 

2. Cơm Ghẹ – Phú Quốc

Cơm ghẹ là món ăn ngon, giàu chất đạm, vị lạ đặc trưng rất ấn tượng và cũng rất khó quên khi đặt chân đến Phú Quốc.


Thành phần chính của cơm xào ghẹ Phú Quốc là cơm trắng, thịt ghẹ bóc sẵn, hành tây xắt lát mỏng, tỏi, ít tương cà vàng, dầu ăn. Thịt ghẹ khoảng 300g bỏ vào chảo xào sau khi phi tỏi vàng cùng với hành tây, cơm trắng khoảng một ký cho năm người dùng. Tương cà giúp cho món ăn có màu sắc đẹp, nêm gia vị vào để có hương vị ngon, khi chế biến cũng thể dùng hạt nêm Knorr thay thế cho gia vị.

Cơm xào ghẹ Phú Quốc khi chế biến có màu vàng ươm cũa tơ vàng óng ánh rất đẹp. Cơm khi xào xong được ăn kèm với dưa leo xắt nhuyễn, rau tươi, cà chua xắt lát dùng với nước mắm pha chế sẵn.

3. Cơm hến – Huế

Người Việt Nam bao giờ cũng ăn cơm nóng, còn cơm hến của xứ Huế lại được chế biến từ cơm nguội đánh tơi nhưng cơm hến được nấu từ thứ gạo ngon nên mềm dẻo. Ăn cơm hến tưởng như là một món trộn với những nguyên liệu phong phú mà đơn giản như cơm nguội cùng hến luộc, nước hến, hoa chuối thái rối, khế chua, rau răm…





Cơm hến hòa cùng vị bùi của đậu phộng, vị cay của ớt, vị đậm đà của mắm ruốc, tạo nên một món thanh đạm. 

Cơm hến là món ăn cay, cay chảy nước mắt, cay toát mồ hôi. Cơm của cơm hến là cơm nguội, mùi ruốc mặn nồng thơm nức mũi, vị chua thanh của khế, mùi thơm ngây ngất của rau thơm, chuối bắp, bạc hà, vị ngọt đằm thắm của nước hến, béo ngậy của tóp mỡ, vị cay đến xé lưỡi, đến phỏng miệng của ớt tương… Người ăn cơm hến đôi lúc vẫn chưa vừa lòng với món ớt tương cay nồng sẵn có, còn cắn thêm trái ớt tươi” rồi xì xụp, xuýt xoa hít hà cho nước mắt nhỏ giọt, mới thấm thía được cái ngon của cơm hến.

4. Cơm Âm phủ – Huế

Cơm Âm phủ là một món ăn có từ lâu đời của đất cố đô, rất đậm “chất Huế” gồm nhiều nguyên liệu tạo thành, đa màu đa sắc nhưng lại rất bình dân. Cái tên nghe rất lạ, tạo cho thực khách vẻ “sờ sợ” nhưng lại là một món ngon độc đáo trong nghệ thuật ẩm thực Huế.





Cơm Âm phủ gồm các nguyên liệu như: cơm trắng, tôm, thịt nướng, chả lụa, trứng tráng, rau thơm, dưa leo, đồ chua… , cách làm cũng khá công phu. Cơm là thành phần chính nên việc chọn gạo để nấu là rất quan trọng. Để cơm ngon phải chọn gạo thơm, có chất lượng tốt.

Cơm Âm phủ có trong bốn mùa. Nếu có dịp đến thành phố Festival Huế, đắm chìm trong khung cảnh thơ mộng của nơi đây, du khách hãy thưởng thức món cơm đậm chất Huế này.

5. Cơm Tấm – Sài Gòn

Cơm tấm vốn là món đặc sản truyền thống của người dân miền Nam mà đặc biệt là người Sài Gòn. Xưa kia, người dân thường sử dụng món ăn này trong bữa sáng, vừa đơn giản mà thuận tiện. Nhưng nay, món cơm tấm độc đáo này được dùng trong nhiều cửa hàng, quán xá, nhà hàng, khách sạn như một món cơm chính trong bữa 
trưa, tối…





Cơm tấm là món ăn độc đáo bởi lẽ đây thứ cơm được nấu từ những hạt gạo vỡ nhỏ, vụn. Những mảnh hạt gạo vỡ được sàng riêng và nấu chín lên bằng bếp củi.

Cơm tấm có hương vị thật nhẹ nhàng nhưng rất đặc biệt và hấp dẫn người thưởng thức. Một *a cơm tấm ăn kèm với sườn, bì, chả, trứng và nước mắm sẽ khiến cho các vị giác của bạn phải trầm trồ bởi vị ngon mà không ngấy.

6. Cơm cháy – Ninh Bình

Tương truyền, cơm cháy Ninh Bình được hình thành hơn 100 năm (từ cuối thế kỷ 19), do một chàng thanh niên người Ninh Bình tên là Hoàng Thăng học được và phát triển từ một món ăn của người Hoa, sau đó mở rất nhiều tiệm ăn ở Hà Nội lẫn Ninh Bình. Từ đó món cơm cháy được lưu truyền, phát triển và trở thành một đặc sản của vùng đất Cố đô.


Để làm món cơm cháy thơm ngon, người Ninh Bình dùng gạo nếp hương, chọn hạt gạo tròn và trong để nấu. Khi nấu phải nấu bằng than củi và dùng nồi gang thì mới có miếng cơm cháy vàng thơm, vừa dẻo vừa ngon. Cháy lấy ra từ nồi mang ra phơi từ hai đến ba nắng. Cơm cháy cần được bảo quản nơi kho dáo, tuyệt đối tránh ẩm mốc, lúc gần ăn thì mới mang ra chiên giòn. Nếu chiên để qua buổi hay qua ngày thì cơm đều bị hôi dầu, ăn sẽ không ngon.

Ăn cùng cơm cháy có thể là thịt bò, tim, cật lợn xào với các loại rau như hành tây, nấm rơm, cà rốt và cà chua… ăn đến đâu, chan lên miếng cơm cháy đến đó. Miếng cơm kêu xèo xèo, bốc khói, toả ra mùi thơm. Khi ăn, cơm giòn tơi, chứa nhiều hương vị của món ăn thập cẩm nóng sốt mà đậm đà.

7. Cơm Dừa – Bến Tre

Xứ dừa Bến Tre không chỉ nổi tiếng với các sản phẩm kẹo dừa, rượu dừa, qua bàn tay tinh tế của người dân nơi đây biến món cơm dân dã hằng ngày trở thành một đặc sản lạ lẫm với người ăn bằng món cơm dừa.



Nấu cơm dừa cầu kỳ. Để được món cơm dừa ngon phải mất gần hai giờ đồng hồ. Những trái dừa xiêm được cắt ngang một phần trên đầu quả dừa để trút nước ra và dùng miếng cắt đó như cái nắp để đậy lại. Gạo ngon vo sạch bằng nước rồi sau đó vo lại nước cuối cùng bằng nước dừa, để ráo nước. Cho gạo vào trong trái dừa rồi đổ lượng nước dừa vào vừa đủ, đậy nắp lại cho kín. 

Cơm dừa nấu với nước dừa được hấp cách thủy trong nồi nên hương thơm, vị ngọt đều kết đọng lại trong mỗi hạt cơm. Khi cơm chín hơi ngả màu vàng nhạt do bị thấm hơi dầu từ cơm quả dừa. Cơm dừa ăn có vị beo béo nên ăn nóng mới ngon.

Cái thú khi ăn cơm dừa là ăn trực tiếp trên trái dừa, không phải ăn bằng chén. Với trái dừa xinh xắn trắng ngà, mùi thơm của dừa hòa quyện cùng làn khói bốc lên làm cho tất cả các giác quan đều hưởng trọn vẹn hương vị của món ăn.

8. Cơm lam

Cơm lam là loại cơm được làm từ gạo (thường là gạo nếp) cùng một số nguyên liệu khác, cho vào ống tre, giang, nứa v.v. và nướng chín trên lửa.



Cơm lam bỏ trong những ống tre, đốt trực tiếp trên lửa, khi ăn chẻ bỏ lớp cháy đen bên ngoài. Cơm lam ăn ngon, lạ miệng, hương vị khác hẳn cơm thường, chỉ cần bỏ ống cơm ra đó thấy mùi thơm rất hấp dẫn. Bẻ miếng cơm lam, chấm muối vừng hoặc muối lạc cho vào miệng, ta sẽ thấy ngon, thơm, dẻo, rất đậm đà, ngoài hương thơm của gạo nếp còn thoảng hương vị thơm thơm của nứa rừng qua lửa. 

Cơm Lam là món cơm đặc trưng của các dân tộc vùng Tây Bắc Việt Nam, Tây Nguyên.

9. Cơm niêu đập

Theo văn hóa của người Việt cho rằng nồi đất là nồi nấu ăn ngon nhất. Gạo Tám mà nấu bằng nồi đồng hoặc bằng các thứ nồi khác đều không thể có hương vị như nấu bằng niêu đất.


Cái niêu đất nung nâu sẫm be bé, miệng hơi khum to hơn tô canh một chút đậy nắp kín với đôi đũa cả gác một bên. Ăn cơm đập ở các nhà hàng, khi niêu cơm được bê lên, người phục vụ mới gõ nhẹ chiếc búa nhỏ vào niêu, những mảnh đất nung vỡ vụn rơi xuống đất còn lại trên tay là ổ cơm chín mịn màng ở giữa nhưng chung quanh là một lớp cháy ròn đều vàng mỏng.

Thường, cơm niêu được ăn kèm với cá kho tộ, cà pháo chấm mắm tôm, canh cua mồng tơi….

10. Cơm nị

Cơm nị một món ăn truyền thống của người Chăm, Châu Giang, An Giang. Cơm nị thường là gạo nấu với sữa nhưng có người lại thích thêm nho khô vào để tăng thêm khẩu vị.



Người Chăm hay ăn Cơm nị với cà púa là món ăn được chế biến từ thịt bò rất độc đáo. Hai món ăn này thường bổ sung cho nhau tạo nên hương vị độc đáo và cầu kỳ mang khẩu vị người Chăm.

Cơm nị – cà púa mang mùi ngọt béo của sữa, vị bùi của đậu phộng, vị mặn ngọt của thịt bò cùng với vị cay xè của ớt, vị ngọt của nho khô làm ngẩn ngơ lòng thực khách. Tất cả đem lại cho người ăn một cảm giác thơm ngon, thật lạ miệng, no bụng mà chẳng thấy ngán. 

 

Theo Yeudulich

 Đất Bến Tre hiền lành mộc mạc ở bên dòng sông Tiền, nổi tiếng với những cù lao đẹp và những vườn dừa xanh mướt… Khi đến đây, ngoài việc thăm thú dã ngoại, đừng quên thưởng thức những món ăn mang đậm hồn phách của người và đất nơi đây.

Đến với Bến Tre, khi về, trong lòng còn nhớ mãi hình ảnh những vườn dừa trải dài, mùi dừa ngào ngạt trong các món đặc sản từ kẹo, bánh cho đến vị đuông dừa béo ngậy.

Đi chơi miền Tây không thể bỏ qua Bến Tre xứ dừa, nơi mà chỉ nghĩ đến thôi đã thấy tâm hồn dịu lại và bao dung hơn. Quả vậy, cái chất miền Tây thấm đượm trong từng câu nói cách hành xử của người dân làm ta yêu quá mảnh đất này.

Càng vấn vương hơn khi đã được chiêu đãi những thức đặc sản Bến Tre gắn liền với thứ cây đặc trưng như đuông dừa, kẹo dừa, bánh phồng, củ hũ dừa…

Kẹo dừa

“Bến Tre nước ngọt sông dài/ Nơi chợ Mỏ Cày có kẹo nổi danh/ Kẹo Mỏ Cày vừa thơm vừa béo/ Gái Mỏ Cày vừa khéo vừa ngoan…”

Kẹo dừa Bến Tre ngon nhất nước, và kẹo dừa Mỏ Cày là đặc biệt nhất Bến Tre. Không nơi nào làm kẹo dừa giống được ở đây. Không chỉ một loại, kẹo dừa còn mang trong nó sự kết hợp với sầu riêng, đậu phộng… tạo ra hương vị đa dạng cho người ăn, thể hiện sức sáng tạo trong lao động của người dân. Kẹo dừa dẻo, thơm, nồng nàn, ngọt đủ cho người đi xa nhớ, người ở gần thân.

Đến Bến Tre, ghé thăm các xưởng sẽ cảm nhận được hết cái hay khi chứng kiến các khâu làm kẹo, từ sơ chế nguyên liệu, cho đến nấu, cắt. Nếu thích, có thể xin được thử gói kẹo hay ăn ngay kẹo khi mới ra lò còn hây hẩy nóng sẽ thấy thú vị lắm.

Kẹo dừa dẻo, thơm, nồng nàn, ngọt đủ cho người đi xa nhớ, người ở gần thân (Ảnh: Internet)

Bánh tráng Mỹ Lồng

Bánh tráng Mỹ Lồng có nhiều hương vị khác nhau như: bánh tráng béo nước cốt dừa (loại ngọt, mặn), bánh tráng béo dừa có thêm sữa, trứng gà hay bánh tráng sữa không dừa. Loại nào cũng ngon nhưng vừa béo, vừa xốp lại khó chán là bánh có dừa.

Bánh tráng Mỹ Lồng vừa nướng trên bếp đã nghe mùi ngào ngạt dừa thơm (Ảnh: Internet)

Bánh tráng nướng trên bếp than cho vừa chín hai mặt, dậy mùi của dừa quyện với bột, lấy ra ăn nóng là ngon nhất. Giòn giòn như bất cứ loại bánh tráng nào nhưng dừa đem lại cho nó vị thơm ngọt không bánh tráng ở đâu sánh bằng.

Ngoài ra, còn có bánh tráng nem mỏng dính để ăn các loại đồ cuốn như nem, bì… Vị mặn mặn đặc trưng của bánh cũng khiến khối người “lao đao”. Thành phố Bến Tre không thiếu các tiệm bán bánh tráng Mỹ Lồng.Tuy nhiên, nếu vừa muốn tham quan, vừa muốn mua tận nơi sản xuất thì chịu khó đi khoảng 7km là sẽ đến làng nghề lâu đời chỉ chuyên làm bánh tráng.

Bánh phồng Sơn Đốc, Phú Ngãi

Bến Tre có hai làng nghề làm bánh phồng nổi tiếng ngang nhau. Cũng từ nguyên liệu là nếp, nhưng người dân miền Tây biến nó thành thứ bánh giòn tan, đậm đà  theo cách thức khá phức tạp. Đặc biệt là kỹ thuật phơi, phải nắng vừa, nếu quá nắng, bánh sẽ chai, gặp mưa xuống bánh bị hư.

Bánh phồng có quy trình làm phức tạp nhưng thành phẩm thì đáng công (Ảnh: Internet)

Nhưng bánh khi ăn có ngon hay không cũng lại phụ thuộc vào sự khéo léo của người nướng nữa. Lửa đốt bằng dừa khô, gáo dừa thành than đỏ rực, cho bánh lên trên nướng kỹ thuật. Tay phải nhanh thoăn thoắt và khéo léo mới trở qua trở lại cho bánh không bị cong vẹo quá mức mà thành chiếc bánh vàng đều, bung to, ngon, giòn hấp dẫn.

Củ hũ dừa

 

Trái tim của dừa, củ hũ dừa, là phần non nhất trên đọt cây dừa. Nó ngọt, mát dịu, là loại thực phẩm giàu chất dinh dưỡng, rất tốt cho sức khỏe.

 

Củ hũ dừa có thể dùng để chế biến ra nhất nhiều món ngon (Ảnh: Internet)

Từ xưa, người dân đã biết lột vỏ ngoài để lấy phần ngon lành nhất này, chế biến thành vô vàn món ăn hấp dẫn, quyến rũ. Đó là củ hũ dừa xào lòng gà, củ hũ dừa chiên bánh xèo, củ hũ dừa xào tôm, củ hũ dừa bóp xổi, củ hũ dừa nấu tôm thịt, gỏi củ hũ dừa, canh củ hũ dừa nấu thịt viên, hoặc đơn giản là ăn sống…

Bao nhiêu tinh túy của đất trời và chắt chiu của cây đều được thể hiện khi dùng món. Vị ngọt ngọt, mà giòn giòn khi nhai, chất tươi, nước trong từng miếng củ hũ dừa làm món ăn dễ thẩm thấu và phù hợp với nhiều người.

Đến Bến Tre nhớ thưởng thức vì khó nơi đâu lại có củ hũ dừa non, ngon, lành như nơi này.

Đuông dừa

“Anh về miền đất xứ dừa/ Nhớ đi thưởng thức đừng chừa món đuông”

Đuông dừa – một trong những đặc sản Bến Tre – là tên gọi một loại sâu dừa. Món này đặc biệt không dành cho các bạn yếu đuối bởi chỉ nhìn mấy con sâu mũm mĩm, ít ai có đủ can đảm để thưởng thức.

Đuông dừa, ăn đi rồi mới biết thế nào là ẩm thực độc đáo! (Ảnh: Internet)

Từ đuông dừa, người ta có thể chế biến thành nhiều món khác nhau, như đuông lăn bột chiên, đuông nướng, thậm chí, ăn sống. Nói về món đuông, có những câu thơ vui như thế này: “Nhìn đuông ai thấy ghê ghê/ Ăn vào mới biết không chê chỗ nào”.Ngay Vũ Bằng, một người sành ăn trên văn đàn Việt Nam cũng phải công nhận đuông dừa là món ngon được liệt vào “siêu hạng”, vượt hẳn các thức ăn khác. Chính vì thế đuông dừa không cần món bổ trợ như rau củ, ăn đuông dừa chỉ cần “ăn trơn một thứ đuông không” là đã đủ vị lắm rồi.

Bánh xèo ốc gạo

Không chỉ du khách phương xa, mà ngay người dân những vùng xung quanh đến mùa là phải ghé qua chợ Lách để tận hưởng món dân giã, nhưng không phải ai cũng được ăn: bánh xèo ốc gạo.

Bánh xèo ốc gạo chỉ có một mùa trong năm

Nói thế là bởi cả vùng đồng bằng sông Cửu Long chỉ có cồn Phú Đa của Chợ Lách có ốc gạo ngon nhất, mà mỗi mùa ốc chỉ từ tháng 4 đến tháng 7 âm lịch là hết.

Vị thơm béo của vỏ bánh đổ từ bột pha nước cốt dừa đã có thể đủ làm khách ngây ngất, nay lại thêm nhân gồm củ sắn xắt sợi, giá đỗ và ốc gạo dai bùi, ngọt ngon rải đều phía trong khiến bánh xèo ốc gạo không ngấy mà lại còn rất lạ vị, đưa đẩy và thuyết phục hoàn toàn những người sành ăn nhất.

Vậy đó, đi chơi Bến Tre, về đến nhà cả tâm trí lẫn dạ dày đều ngập vị dừa ngọt thơm, béo bổ mà gần gũi.

Theo Tạ Ban (Eva.vn)

Những món ăn Việt ‘ngon nhất thế giới’

Ẩm thực là một niềm tự hào của người Việt, khi mà  có không ít lần, những món ăn ngon của Việt Nam được lọt vào top, thậm chí được ca ngợi là ‘ngon nhất thế giới’. Cùng điểm lại 10 món ăn mà có lẽ không du khách nào đến Việt Nam mà không muốn thử.

1- Bánh mỳ thịt nướng

Trang mạng concierge.com của tạp chí du lịch Mỹ Condé Nast Traveler đã gọi món bánh mì thịt nướng vỉa hè Nguyễn Trãi (quận 1 – TP.HCM) do chị Gái thực hiện là ‘bánh mì ngon nhất thế giới’…Ngoài ra, món bánh mì nhân thập cẩm Việt Nam cũng được Tạp chí National Geographic (Mỹ) bình chọn vào danh sách những món ăn đường phố hấp dẫn nhất thế giới.

2- Bánh khọt

Bánh khọt là một trong những món ăn ngon nhất thế giới trong cuộc bình chọn tại Lễ hội Ẩm thực Đường phố Quốc tế diễn ra ở Singapore 2013.

3- Bánh xèo

Một trong 40 món ngon nhất Việt Nam do CNN bình chọn.

4- Chuối nếp nướng

(Món ăn do bà Ngô Thị Bích Thủy – bán hàng tại khu vực quận Phú Nhuận, Bình Thạnh, Tp.HCM thực hiện). Đây là một trong những món ăn ngon nhất thế giới trong cuộc bình chọn tại Lễ hội Ẩm thực Đường phố Quốc tế diễn ra ở Singapore 2013.

5- Phở bò 

Phở bò được CNN chọn là 28/50 món ăn ngon nhất thế giới (2011)Không nhiều lựa chọn như bò, gà, sốt vang… phở “bưng” chỉ có duy nhất món phở đúng kiểu Hà Nội như nhà văn Nguyễn Tuân từng viết, phải là phở bò chín với đủ miếng nạm giòn, miếng gầu béo, bánh phở dai mịn, hành lá chẻ và nhiều hành hoa. Chiều cuối tuần tới đây dễ gặp những khách hàng nghiện phở ngồi ăn hết hai bát tô đầy.

6- Nem vuông

Nằm khiêm tốn trên vỉa hè phố trà chanh Đào Duy Từ với biển hiệu “Nem vuông cua bể”, quán là địa chỉ quen thuộc với những người tìm một bữa ăn lót dạ. Quán nem vuông đông khách nhất vào buổi trưa, vỉa hè và phòng ăn nhỏ hẹp hầu như không còn một chỗ trống. Còn nếu đến đây vào ngày cuối tuần dễ thấy cảnh khách hàng phải đứng chờ.

Nem vuông được CNN bình chọn là một trong những món ăn đường phố hấp dẫn nhất châu Á. Đúng như tên gọi, những chiếc nem ở đây không thuôn dài như truyền thống mà lại vuông vắn nhỏ xinh. Món nem vuông được cho là có xuất xứ từ Hải Phòng, nhưng hiện nay đã có mặt ở Hà Nội và Tp.HCM.

7- Chả cá

“Tây ba lô” đến Hà Nội không thể bỏ qua chả cá Lã Vọng, nó là cái tên được nhắc đến đều đặn trên mọi cuốn sách hướng dẫn du lịch bỏ túi. Căn nhà vẫn còn đậm chất kiến trúc phố cổ – số 14 phố Chả Cá, là nơi lưu giữ nguyên vẹn cái hồn chả cá Hà Nội hơn một thế kỷ qua.

Tác giả Patricia Schultz đã đưa món chả cá Lã Vọng vào cuốn “1.000 nơi nên biết trước khi chết” (1000 Places to See Before You Die). Hãng tin MSNBC chọn nhà hàng Chả cá Lã Vọng Hà Nội ở vị trí thứ 5 trong 10 nơi nên biết trước khi… chết (2003).

8- Nem rán

Nhà hàng “Vườn gia vị” thuộc khách sạn Sofitel Legend Metropole Hà Nội là nơi giới thiệu những món ăn Việt Nam với du khách quốc tế. Nem rán được những đầu bếp tại đây tạo thêm nhiều “phiên bản” để phù hợp với những vị khách đến từ nhiều nền văn hóa trên thế giới.

Được CNN bình chọn là Top 10 những món ăn ngon nhất Việt Nam, nem rán (chả giò) cùng phở từ lâu đã được coi là những đại sứ của ẩm thực Việt Nam.

9- Bún riêu cua 

Năm 2012, bún riêu cua đã được CNN bình chọn là một trong những món ăn hấp dẫn nhất châu Á.

10- Bún chả

Được CNN bình chọn là 1 trong 25 món ăn mùa hè hấp dẫn nhất thế giới (năm 2013)Cũng như nhiều món chấm khác, bún chả quan trọng nhất là nước chấm. Ngoài giấm gạo ngâm tỏi lấy vị chua, quán bà Nga vẫn giữ nếp cũ của người Hà Nội dùng sấu luộc để nguyên quả cho nước trong. Nước luộc sấu đã có vị chua, mùa hè nóng bức khách có thể dầm thêm cả quả vào bát nước chấm. Giấm sấu không chua bằng giấm gạo nhưng dịu ăn rất vừa miệng.

(Sưu tầm)

Bên cạnh phở Việt truyền thống, du khách còn có cơ hội thưởng thức phở sốt vang, phở chiên phồng hay phở trộn…

Đúng như nhà văn Băng Sơn từng nói “Phở là món quà thật riêng biệt”, nên dù đi tới bất kỳ nơi nào trên dải đất hình chữ S cũng tìm thấy được quán phở. Không chỉ có phở nước truyền thống, những quán phở biến tấu cũng mọc lên khá nhiều. Dưới đây là 6 loại du khách nên tìm thưởng thức.

1. Phở sốt vang

Bát phở thơm từ nước dùng, hành lá và đậm vị thịt bò sốt vang

Sợi phở trắng từ châu Á, miếng thịt bò nấu theo phong cách châu Âu, những tưởng hai nền ẩm thực khác biệt sẽ chẳng thể kết hợp nhưng dưới đôi bàn tay tài hoa của người nội trợ, bát phở sốt vang vẫn chiếm được cảm tình của nhiều người. Không như phở truyền thống khá phong phú với phở tái, tái chín, tái gầu,…phở sốt vang chỉ có một loại. Thế nhưng chẳng ai lấy đó làm phiền, khách vẫn gọi món và thưởng thức ngon lành. Phở sốt vang vì thế càng được thêm yêu thích.

2. Phở chiên phồng

Bánh phở cắt miếng vuông rồi thả vào chảo dầu sôi để có độ chiên phồng. Tuy nhiên, điểm đặc biệt còn nằm ở công đoạn xào thịt bò cùng rau cải. Thịt bò chọn loại ngon, nêm nếm gia vị cẩn thận sau đó cho xào cùng rau cải ngọt. Khi tới chín sẽ múc ra đĩa rồi mới đặt những miếng phở chiên phồng còn nóng lên trên. Phở chiên trong chảo dầu sôi dễ bị ngấy nhưng khi kết hợp cùng rau cải xào thịt bò thì vị ngấy cũng mất hẳn. Thế mới biết sự kết hợp nào cũng đều có ngụ ý cả.

3. Phở xào

Phở xào ăn cùng dưa chuột dầm chống ngấy.

Phở xào dễ ăn và dễ gọi, điều mà nhiều người sành phở nắm rõ như lòng bàn tay. Cũng vẫn đôi ba nguyên liệu quen thuộc như thịt bò, rau cải, hành tây… nhưng món ngon này mang đến cho thực khách nhiều dư vị khác biệt cứ khiến phải trầm trồ. Đó ắt hẳn từ bánh phở dai kết hợp cùng rau cải xanh giòn và thịt bò thơm mùi tiêu tỏi. Tuy nhiên không phải vì thế mà phở xào không có nhược điểm. Một số cửa hàng bán phở xào có phục vụ thêm dưa chuột dầm và rau sống để chống ngấy. Thế nhưng để cân bằng hơn nữa, khách có thể gọi thêm cho mình một tách trà.

4. Phở chiên trứng

Nếu như phở chiên phồng được cắt miếng vuông, bản lớn thì phở chiên trứng được thái sợi nhỏ hơn sau đó mới thả vào chảo dầu nóng. Tới lúc phở gần chín, người làm mới đổ trứng đã đánh bông vào để sợi phở dính và bám được lấy nhau. Phở chiên trứng cũng được ăn cùng thịt bò xào rau cải để giảm độ ngấy. Món ngon khi ấy là sự kết hợp của rau xào đậm vị và phở chiên giòn, khá hấp dẫn và đáng để thưởng thức.

5. Phở trộn

Vẫn có món phở trộn cùng thịt bò cho du khách khó tính.

Trong khi phở nước truyền thống nổi tiếng nhất với thịt bò thì người anh em của nó là phở trộn lại nức tiếng nhờ thịt gà. Có không ít hàng phở trộn mọc lên trên khắp thành phố, đủ khiến khách thèm thuồng, băn khoăn chọn lựa. Phở trộn được làm từ bánh phở, thịt gà luộc xé nhỏ, lạc rang, hành khô, giá,… Tùy vào từng cửa hàng mà gia vị gia giảm sẽ có nhiều sự thay đổi nhưng chính sự khác nhau này lại khiến món phở trộn mỗi vùng trở nên đặc biệt.

Cùng một nhánh khác của phở trộn là phở chua, món ăn thực khách có thể bắt gặp tại Lạng Sơn, Cao Bằng. Về cơ bản cách làm của hai món ăn này khá giống nhau chỉ khác về nước dùng cho thêm. Nếu phở trộn sử dụng xì dầu và nước dùng thì phở chua lại cho thêm nước sốt chua ngọt àm từ nhiều ớt, cà chua, dấm, đường,….

6. Phở cuốn

Món phở cuối cùng không thể không nhắc đến chính là phở cuốn. Điểm đặc biệt của món này ở chỗ người ăn có thể sử dụng cả tay hoặc đũa để thưởng thức. Từng miếng bánh phở thoạt nhìn như miếng gỏi cuốn với nhân thịt bò xào, rau xà lách, rau mùi, được chấm cùng nước chấm chua ngọt có thả thêm đu đủ, cà rốt. Người ăn cứ thế tách từng miếng phở cuốn xếp đầy đặn trên đĩa để cảm nhận hương vị thơm ngon đang quyện lại trong miệng. Chính vì có vẻ ngoài bắt mắt cùng hương vị ấn tượng mà phở cuốn được cả người lớn và trẻ nhỏ yêu thích.

Đỗ Huyền (vnexpress.net)

ĐẾN TRÀ VINH KHÁM PHÁ NỀN ẨM THỰC CỦA 3 NỀN VĂN HÓA

Các đặc sản Trà Vinh đều là những hương vị đặc biệt đậm đà, sự kết hợp văn hóa ẩm thực của người Kinh – Khmer – Hoa.

Đến với mảnh đất Trà Vinh, bạn sẽ không khỏi ngỡ ngàng bởi những vẻ đẹp nguyên sơ thuần khiết của bãi biển Ba Động cát trắng nước trong, những hàng phi lao xanh mướt, thanh tĩnh vô cùng. Bạn còn có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp cổ kính của gần 200 ngôi chùa của 3 dân tộc người Khmer – Kinh – Hoa sống trên mảnh đất này.

Sự giao thoa văn hóa độc đáo của 3 dân tộc không chỉ thể hiện trong đời sống con người mà còn thể hiện vô cùng rõ nét trong những đặc sản thơm ngon, hấp dẫn của Trà Vinh.

Mắm bò hóc

Miền Tây nước quanh năm nên phong phú các loại cá làm nguyên liệu mắm bò hóc, được người Khmer xem như đặc sản đãi khách quý. Từ loại mắm này, người ta có thể chế biến thành nhiều món ngon khác.

Món nhanh nhất và nguyên chất nhất là mắm sống trộn với chanh, ớt, tỏi thêm chút đường gia giảm độ mặn, tăng thêm quyến rũ cho món ăn. Mắm bò hóc – đặc sản Trà Vinh – pha ăn kèm với các loại rau, quả như khế, chuối chát, rau thơm, lá xoài non, đọt cóc hay cải sống, đậu ớt, dưa leo, cà rừng. Vừa gắp miếng rau củ, vừa gạt kèm miếng mắm bò hóc đậm đà ăn cơm ngày mưa là dấu ấn tuổi thơ của nhiều người. Vị beo béo, mặn mà, mùi hương riêng khác như cái tình của vùng đất này, giản đơn nhưng sâu nặng. Người Trà Vinh dù có đi bao xa, đến đâu cũng không thể không nhớ đến mùi vị đặc biệt ấy mỗi ngày mưa trời có mưa lâm thâm.

Người Trà Vinh dù có đi bao xa, đến đâu cũng không thể không nhớ đến mùi vị đặc biệt ấy mỗi ngày mưa trời có mưa lâm thâm (Ảnh: Internet)

Bún nước lèo

Đặc sản nổi tiếng nhất của Trà Vinh là bún nước lèo. Bún nước lèo có sự kết hợp giữa các nguyên liệu như mắm bò hóc, thịt heo quay và các loại rau sống. Nước dùng của bún nước lèo có vị ngọt tự nhiên từ tôm cá đã làm loãng đi độ đậm đặc của mắm bò hóc khiến cho ngay cả người kén ăn, không quen mùi mắm cũng có thể thưởng thức trọn vẹn.

Bún nước lèo vô cùng phổ biến ở đây, ngay cả quán nhỏ cũng sẽ không làm bạn thất vọng (Ảnh: Internet)

Từng sợi bún cùng với bắp chuối, rau muống bào nhỏ, bông súng, rau thơm xắt nhuyễn ngập trong nước lèo là đủ đặm, đủ ngon. Nhưng món ăn còn thêm thịt heo quay xắt miếng vừa miệng, bì giòn, thịt mềm. Mỗi miếng bún đều thơm hành phi, thơm rau, thơm thịt lại vừa thanh thanh vị nước lèo, vừa nồng nàn vị mắm hợp với các loại rau. Món ăn này vô cùng phổ biến ở đây, ngay cả quán nhỏ cũng sẽ không làm bạn thất vọng.

Bánh tét cốm dẹp

Cốm dẹp – đặc sản Trà Vinh – làm từ nếp non. Những hạt gạo gặt sớm được rang và giã đều tay tạo thành món ăn thơm lừng mùi đồng ruộng. Cốm dẹp làm bánh tét còn trộn với nước cốt dừa trước khi cho vào gói cùng nhân đỗ xanh trộn đường, vani tạo mùi. Người miền Tây gói bánh tét cốm dẹp bằng lá chuối xiêm hoặc lá lùng chứ không dùng lá dong. Và thay vì ninh trong nước, bánh được cho vào nồi hấp cách thủy.

Bánh tét cốm dẹp vừa béo vừa ngậy vừa bùi lại ngọt ngọt có thể ăn đến no mà không chán (Ảnh: Internet)

Bánh có lớp ngoài dẻo quyện không kém bánh chưng hay bánh tét ở bất cứ vùng miền nào trên đất nước nhưng còn hương thơm tuyệt vời, ngào ngạt mùi dừa, mùi gạo mới, mùi cốm… thì là độc nhất. Bánh tét cốm dẹp vừa béo vừa ngậy vừa bùi lại ngọt ngọt có thể ăn đến no mà không chán. Đến Trà Vinh, mua chục bánh tét về làm quà là nhất.

Chù ụ

Chù ụ thuộc họ nhà cua, nhìn hơi xấu xí với thân hình vuông nhỏ. Đây là đặc sản của vùng Ba Động. Chù ụ không đẹp mắt nhưng có thể chế biến thành nhiều món ăn đẹp lòng du khách.

Không cần nhiều gia vị, bạn có thể thưởng thức chù ụ nướng than. Chù ụ đưa lên lửa sẽ dần chuyển sang màu đỏ, hương thơm ngút ngàn cực kỳ hấp dẫn. Khi chín, trộn chúng với ít rau răm, chấm muối ớt hoặc muối tiêu chanh, đảm bảo ngon quên sầu.

Chù ụ tuy không đẹp mắt nhưng có thể chế biến thành nhiều món ăn đẹp lòng du khách (Ảnh: Interenet)

Thịt chù ụ dai mềm và ngọt không kém cua, ghẹ nên còn được hấp bia, rang me. Ngoài ra, người dân cũng hay làm chù ụ kho nghệ, xào hành… Tuy nhiên, vì thân hình nhỏ bé khiêm tốn nên nó không phổ biến và có tiếng như nhiều hải sản khác.

Cháo ám

Để có nồi cháo ám ngon, người nấu cần khá nhiều công sức. Cá lóc phải tươi, mập đem luộc và gỡ từng miếng, bỏ xương rồi xào với hành thơm nức mũi. Trứng cá lóc đánh nhuyễn rồi mới cho vào nồi cháo nấu từ nước luộc cá. Trong món cháo ám còn có cả hành khô, tôm khô, mực khô nướng.

Cháo ám không thể thiếu sự kết hợp giữa mắm nêm ngon đã được pha, tương hột đâm nhỏ, ớt bỏ hột bằm nhuyễn, xào sền sệt với tỏi, cho thêm tiêu xay, đậu phộng rang giã nhỏ. Đặc biệt, các loại rau sống xắt nhuyễn, hành ngò, giá trụng và bánh tráng mè nướng giòn bóp vụn ở trên cũng là phụ liệu cần thiết cho món ăn.

Cháo ám không thể thiếu sự kết hợp giữa mắm nêm ngon đã được pha, tương hột đâm nhỏ, ớt bỏ hột bằm nhuyễn, xào sền sệt với tỏi, cho thêm tiêu xay, đậu phộng rang giã nhỏ (Ảnh: Internet)

Mùi thơm quyến rũ của tiêu, hành, đậu phộng với cái ngọt thanh của nước, mềm béo trong cá, trứng cá, bùi bùi của mực và tôm kết hợp vị đặm nồng của mắm nêm pha và sự khác biệt khi ăn cùng rau thơm, rau sống thái nhỏ biến cháo ám thành một trong những loại cháo ngon nhất, khác biệt nhất nên thử một lần trong đời.

Bánh canh Bến Có

Lần đầu ăn đặc sản này nhiều người sẽ thắc mắc “sao cho nhiều thịt thế”. Đây chính là điểm đặc biệt của bánh canh Bến Có, tỷ lệ thịt và bánh phải gần bằng nhau. Nhưng nó không khiến người ăn bị ngán bởi ngoài thịt heo, còn có cật, gan, phèo, tim, bao tử, lưỡi, móng, tai heo… Mỗi loại đều mang vị ngon riêng và tạo sự hòa hợp chung trong món ăn.

Tô bánh canh Bến Có – đặc sản Trà Vinh – không quá cầu kỳ nhưng nước dùng ninh từ thịt, xương heo và đảm bảo độ trong nên nhìn rõ từng sợi bánh canh trắng nõn, hành hò xanh mướt, tiêu hạt nhuyễn rắc phía trên với vài lát ớt tô điểm cho món ăn đẹp giản dị.

Bánh canh Bến Có với tỷ lệ thịt và bánh phải gần bằng nhau (Ảnh: Internet)

Gắp bánh canh, húp miếng nước dùng là nghe bụng dạ xốn xang. Chọn lát thịt mỏng chấm vào chén mắm dằm ớt rồi từ từ tận hưởng vị mắm cá nguyên chất hòa với thịt mềm lại càng đê mê hơn.

Bún suông

Bún suông đặc biệt nhờ chả tôm thơm ngon. Làm từ tôm tươi ướp mắm, xay nhuyễn cùng hạt tiêu, chả tôm không được nặn theo hình vuông, chữ nhật hay tròn mà được làm thành từng “suông”. Suông nhìn qua giống như con đuông, có thể để không thả vào nồi nước dùng đang sôi hoặc chiên với dầu ăn trước khi dọn ra tô.

Bún suông đặc biệt nhờ chả tôm thơm ngon (Ảnh: Internet)

Nước lèo của món bún này cũng khác biệt, không trong mà có màu nâu của me và tương hạt. Bún suông nhìn vừa đẹp mắt, ăn lại ngon chẳng kém bất cứ loại bún ở địa phương nào. Vị nước dùng đậm đà, chua chua ngọt ngọt dậy mùi tương lan trên đầu lưỡi, vướng vít quanh khứu giác. Khi ấy, cắn thêm miếng suông ngọt tôm và thơm béo sẽ nhận ra ngũ vị đã được đánh thức như thế nào chỉ vì một món ăn ngon.

Tạ Ban (eva.vn)

Từ khóa “best banh mi in Vietnam” sẽ cho bạn kết quả về tiệm bánh mì tên “Bánh mì Phượng” ở Hội An. Vậy điều gì làm nên sự đặc biệt trong chiếc bánh mì ngon nhất Việt Nam đó.

Đầu bếp người Canada Cameron Stauch , người đã từng có thời gian nấu ăn cho tổng thống Canada và hiện đang sinh sống tại Hà Nội sẽ cho chúng ta biết những cảm nhận đặc biệt của bản thân khi nếm thử chiếc bánh mì ngon nhất Việt Nam.

Với niềm hứng thú và háo hức đặc biệt, người đầu bếp Canada đã ăn hết chiếc bánh mỳ của mình một cách nhanh chóng, thậm chí thưởng thức tới cả những giọt sốt cuối cùng dính lại trên các ngón tay và yêu cầu thêm một chiếc bánh mỳ nữa. Đó là những điều tuyệt vời mà Cameron Stauch có được khi tới cửa hàng bánh mì Phượng ở Hội An.

Trước khi đến Việt Nam, Cameron Stauch đã từng thử một vài loại bánh mì Việt tại các quầy hàng bánh mỳ ở nước ngoài do người Việt làm chủ sở hữu, nhưng hương vị đó không làm người đầu bếp Canada cảm thấy thỏa mãn. Khi tới Việt Nam, những chiếc bánh mỳ tại Hà Nội cũng như Sài Gòn đều được vị đầu bếp nhận xét là khá ổn, nhưng đều thiếu cá tính và không đủ no bụng. Chỉ khi tới quán “bánh mì ngon nhất Việt Nam” theo cảm nhận của nhiều bạn bè quốc tế khác, ông mới thực sự cảm thấy thỏa mãn. Sau một vài lần lưu lại phố cổ xinh đẹp Hội An, cuối cùng Cameron Stauch đã tìm ra yếu tố khiến những chiếc bánh mỳ ở đây ngon đặc biệt tới như vậy. Đó là do hầu hết các thành phần nguyên liệu đều được chủ tiệm tự chế biến, chứ không phải dùng các nguyên liệu có sẵn như nhiều nơi khác.

Một số điều độc đáo khác tạo nên chiếc bánh mì ngon nhất Việt Nam được người đầu bếp Canada khám phá ra đó là…

Bánh mì giữ ấm trong bếp ủ than hồng

Những chiếc bánh mì ở quán đều khá mỏng, không bị dày như loại bánh mì Pháp cổ điển. Tất cả bánh mì trước khi chế biến đều được giữ ấm trong một khoang tủ gỗ bởi nhiệt độ của một chiếc bếp than hồng.

Nước sốt tự chế

Nước sốt của quán bánh mì Phượng đều được chủ tiệm chế biến kì công, mang vị béo ngậy đậm đà. Thay vì các loại maiyonaise, nước tương, mắm nêm pha sẵn, chủ tiệm đã tự pha chế một loại “siêu sốt” theo cách gọi của đầu bếp Cameron Stauch. Công thức này là bí quyết được giữ kín của chủ tiệm.


Loại “siêu sốt” mang hương vị đặc biệt

Thịt và pate hảo hạng

Thịt ăn kèm bánh mỳ bao gồm một lát mỏng thịt lợn thăn nướng, thịt nguội hoặc chả lụa, xúc xích. Ở quán còn có loại pa te gan đặc biệt mềm và ngậy béo, khi ăn như tan ngay trong khoang miệng góp phần tăng thêm hương vị thơm ngon.



Các loại rau ăn kèm

Tất cả rau ăn kèm đều là rau tươi, kết hợp từ nhiều loại rau sống khác nhau mang hương vị độc đáo như rau mùi, rau húng, hành lá…Một chút cà rốt, dưa chuột muối chua ngọt cũng làm tăng thêm sự mới mẻ và ngon miệng cho chiếc bánh mì tiệm Phượng.


Cách sắp xếp nguyên liệu

Các nhân viên quán đều tuân thủ một cách sắp xếp nguyên liệu thống nhất, khiến thời gian hoàn thành một chiếc bánh mì chỉ mất vài phút ngắn ngủi và hương vị đồng đều cho tất cả. Đầu tiên, một muỗng sốt maiyonaise tự chế được rưới đều trong bánh, tiếp đến là một muồng pate trải đều bên dưới. Hai muỗng nhỏ sốt tiêu được rưới dọc thành bánh, thịt và rau muối được thêm ở bước tiếp theo.

Các loại nguyên liệu chính như thịt, chả lụa được đặt vào bánh; phủ lên trên là chút tương ớt hoặc thêm một chút nước sốt tự chế. Đầu bếp Cameron Stauch chia sẻ, ông tin rằng quy trình phân lớp đặc biệt đó đã tạo nên hương vị hài hòa dễ gây nghiện cho chiếc bánh mì ở đây.

Cameron Stauch yêu thích chiếc bánh mì ở cửa tiệm nhỏ nơi phố cổ Hội An một cách đặc biệt, ông cũng không quên gợi ý cho bạn bè và các du khách quốc tế khác địa điểm lý thú này.

T.H (Depplus.vn/MASK)

 

Khám phá ẩm thực là một cuộc phiêu lưu kỳ thú. Đôi khi bạn gặp những món ăn có vẻ lạ lùng, thậm chí dị hợm với hầu hết mọi du khách, nhưng lại rất bình thường và quen thuộc đối với cư dân bản địa. Tờ Travel and Leisure đã liệt kê danh sách những món ăn sáng lạ lùng nhất thế giới dựa trên những thống kê của họ.

Nhật: Chawanmushi

Món ăn trộn lẫn giữa các loại nấm, chả cá, tôm luộn trộn với nước dùng dashi, rượu mirin, trứng sữa và được hấp trong một cái thố. Món ăn này được coi là vừa ngon vừa bổ.

Mexico: Huitlacoche

Món ăn trông ghê ghê và có vẻ độc hại này, tuy vậy đối với người Mexico, đây là loại thực phẩm ưa thích trong bữa sáng. Loại mốc trên những quả bắp không hề độc hại và thậm chí còn ngon miệng.

Trung Quốc: Cháo trứng bắc thảo

Đối với nhiều du khách, trứng bắc thảo đã mang đến sự lạ lùng cho món điểm tâm này. Loại trứng màu đen, có mùi hăng làm từ trứng được ủ bằng hỗn hợp tro, trấu, đất sét, vôi, muối… chưa bao giờ là thân quen và dễ chịu đối với đa số người phương Tây.

Scottland: Haggis

Một cái dạ dày cừu được nhồi đầy ắp các loại nội tạng cừu sau khi trộn các thứ gia vị, nguyên liệu khác, rồi luộc trong vài giờ. Món ăn này cũng từng được đưa vào bài thơ Address to Haggis của Robert Burns.

Jamaika: Ackee

 

Mặc dù bắc nguồn từ Tây Phi nhưng Jamaica mới là nước nổi tiếng với loại quả này. Ackee thậm chí được coi là quốc quả của Jamaica. Người dân bản địa có nhiều cách sử dụng và chế biến khác nhau đối với loại quả có chứa độc tố đến chết người này.

Pakistan và Banladesh: Siri Paya

 

Đây là món thường được liệt kê vào danh sách những món ăn kinh dị nhất. Siri nghĩa là đầu, Paya nghĩa là chân. Món ăn làm từ đầu và chân của con dê, bò hoặc cừu này đã trở thành món quốc hồn quốc túy của những quốc gia trên.

Hàn Quốc: Kimchi

Kimchi cũng là một trong những món ăn mang lại sự ngạc nhiên nhiều nhất đối với du khách. Kimchi làm bằng cách lên men các loại rau củ (phần lớn là cải thảo), với ớt và các hương liệu. Đây là món ăn tiêu biểu nhất của ẩm thực hai miền Triều Tiên.

Mỹ: Scrapple 

Người làm món này gom lại các miếng thịt thừa, bỏ đi sau khi chế biến của con heo sau đó đem luộc rồi bằm nhuyễn, kết hợp với bột bắp cũng như các thứ gia vị rồi đóng lại thành khối trước khi rán chín.

Thái Lan: Pad kee mao

Nền ẩm thực đặc biệt của Thái Lan dĩ nhiên sẽ có một đại diện trong danh sách này, và đó là một món mì gạo có đủ các hương vị chua cay mặn ngọt.

Scandinavia: Filmjölk

 

Filmjölk có được bằng cách lên men sữa, tương tự với sữa chua nhưng người ta cho rằng hương vị của nó giống như pha trộn giữa bơ và kem chua. Đây là món ăn truyền thống dùng chung với ngũ cốc trộn với cư dân Scandinavia.

Mỹ: Loco Moco  

Loco Moco thường làm từ cơm, trứng ốp, thịt bằm rán chín và nước sốt thịt, là món ăn sáng phổ biến của người dân Hawaii.

Nga: Syrniki

 

Đây là món bánh làm từ một hỗn hợp gồm phô mai, trứng, kem chua, bột mì, bơ, đường và muối… rồi nặn thành những miếng tròn trước khi chiên bằng dầu ăn.

Việt Nam: Phở

Phở là món quốc túy của Việt Nam. Họ có thể ăn phở mỗi ngày. Nước dùng của phở được làm rất công phu và ngon miệng. Bên cạnh đó nó cũng rất bổ dưỡng, một tô phở cung cấp đủ năng lượng cho cả ngày làm việc.

Mỹ Mạnh.

Theo travelandleisure.com.

Hàng rong Sài Gòn hơn 100 năm trước

Gánh phở, xe kem, thùng tào phớ… trên vai, bộ bưu ảnh tái hiện nhiều ký ức thân quen ở Sài Gòn – Chợ Lớn đồng thời cho thấy cảnh sôi động của thành phố ngay từ đầu thế kỷ 20.

Đô thị Sài Gòn- Chợ Lớn, một trong hai thành phố quan trọng nhất Việt Nam sau khi Pháp chiếm Đông Dương vào cuối thế kỷ 19. Các nhà nhiếp ảnh người Pháp nhanh chóng phát hiện ra hoạt động buôn bán kiểu di động- hàng hoá, thức ăn được lưu thông dựa vào sự dẻo dai của đôi chân người bán hàng, có mặt ở khắp các ngóc ngách của thành phố. Bộ bưu ảnh hàng rong ở Sài Gòn- Chợ Lớn tái hiện một phần đời sống kinh tế- xã hội cũng như văn hoá của người Việt hồi đầu thế kỷ 20.
Phở là món ăn truyền thống của người Việt xuất hiện đầu tiên trên các gánh hàng rong. Thành phần đơn giản, chỉ gồm nước lèo, bánh phở, một vài miếng thịt và các lọ gia vị. Đây là một gánh phở dạo khác của người Sài Gòn xưa, người bán hàng gánh cả bếp lò, nồi nước sôi đi khắp nơi phục vụ.
Bánh gạo, một loại bánh phổ biến cũng được bán rong trên các khu phố. Bánh được làm từ gạo trộn cùng một số loại ngũ cốc khác cho có mùi vị, cho thêm bột kết dính rồi ép dẹp, sau đó hấp chín.
Cháo, mỳ hay hủ tiếu được người Pháp gọi chung là súp. Các gánh hàng loại này khá cồng kềnh, nặng nề nên chủ gánh thường chọn một góc phố đông người, ngã tư để tiện buôn bán.
Hình ảnh khá thú vị về một xe bán kem của người Hoa Sài Gòn những năm đầu thế kỷ 20. Kem được làm mát bằng đá lạnh xếp xung quanh, sát thùng là một lớp xốp mỏng để giữ đá lâu tan. Người bán sẽ “thu hút” khách bằng một cái chuông nhỏ gắn sát tay lái bên phải.
Khu vực Chợ Lớn tập trung đông đúc Hoa kiều theo đường biển vào lập nghiệp ở Việt Nam từ thời các chúa Nguyễn mở mang bờ cõi. Người Hoa là những người giỏi buôn bán, chịu khó nên các gánh hàng của họ thường đông khách. Hình ảnh chú “Khách”- một cách gọi người Hoa của người Việt bán với đôi quang gánh bán dạo các món ăn như mỳ, cháo, tào phớ… rất quen thuộc và tồn tại cho đến những năm 70 của thế kỷ 20.
Hình ảnh điển hình của gánh tào phớ xưa. Người bán thường gánh một thùng gỗ đựng tào phớ, một chạn gỗ đựng chén bát, muỗng, và những vật dụng khác. Người bán tào phớ có tiếng rao rất đặc biệt, chỉ có một chữ ” phớ…” kéo dài.
Quán bán nước giải khát trên vỉa hè. Người bán hàng ngồi trên ghế cho thấy quán hàng kiểu này là cố đinh, khách hàng là khách qua đường, các bác phu xe kéo nghỉ chân uống chén trà xanh hay một loại nước trái cây nào đó như dừa, được trồng nhiều ở ngay tại vùng Sài Gòn- Chợ Lớn.
Những thực khách ngồi xổm thưởng thức món mỳ của một người bán hàng rong người Hoa ngay trên đường. Các gánh hàng kiểu này vẫn duy trì nhiều ở Sài Gòn cho đến tận những năm 1970.
Nón lá, hình ảnh đặc trưng của người Việt, được làm từ lá cọ lợp trên nên khung tre nhỏ hình chóp nhọn dưới có quai đeo, nón rộng vành nên che kín mặt và rất mát. Nón của người Việt khác với nón người Trung Quốc hay đội với cái chóp nhọn đặc trưng.
Sài Gòn xưa cũng có những khu phố tập hợp các loại gánh hàng rong để người dân và khách thuận tiện ăn uống. Vào buổi sáng khu phố rất náo nhiệt thu hút cả người Tây sống ở thuộc địa.
Họp chợ trên đường phố là một thói quen cố hữu của người Việt. Buôn bán nhỏ, mang bán từng mớ rau, con cá nuôi được nên người Việt tiện đâu bán đấy. Những hình ảnh này cho thấy các bà các chị đang mua bán nông sản, thực phẩm rất sôi động trên phố phường Sài Gòn xưa.
Một người Việt với chiếc nón lá đặc trưng quẩy đôi quang gánh trên đường phố Sài Gòn. Trong đôi sọt đan bằng lá của người đàn ông này thường có nhiều loại nông sản do chính gia đình trồng được để mang đi bán.

Hải An (Zing.vn)