Cách làm món Cá hồi kho tộ

Cá hồi hiện nay không còn là của hiếm ở Việt Nam. Các món ăn từ cá hồi ngày càng quen thuộc trong bữa cơm gia đình của người Việt.

Nguyên liệu:

Cách làm:

– Hành củ băm nhuyễn.
– Cá rửa sạch, xát muối vào thân cá rồi để khoảng 30 phút.
– Bắc nồi kho lên bếp, cho vào 2 muỗng canh nước hàng.
– Sắp cá ngay ngắn vào nồi, nêm 1/2 muỗng cafe muối, 2 muỗng cafe nước mắm, hành băm, cho thêm 1 lượng nước sâm sáp mặt cá. Rồi bật lửa đun sôi.
– Sôi rồi thì vặn nhỏ lửa, nêm 2 muỗng cafe đường, nếm lại cho vừa miệng, kho cho tới khi nước cá sền sệt, cá chín, thì nếm lại lần nữa, nếu mặn quá thì châm thêm nước kho tiếp.
– Cá được rồi thì tắt bếp, rắc tiêu vào.
– Ăn cá kho với cơm nóng.

Bé Thúi

7 món ăn “kinh dị” nhưng rất bổ dưỡng

Ngày càng có nhiều chuyên gia cho rằng, con người sẽ sớm không còn lựa chọn nào ngoài việc tiêu thụ các loài côn trùng béo ngậy.

 

Khi dân số tăng lên đến gần 8 tỷ người, việc lấp đầy những cái miệng đói thật sự là một điều khó khăn. Ngày càng có nhiều chuyên gia cho rằng con người sẽ sớm không còn lựa chọn nào ngoài việc tiêu thụ các loài côn trùng.

7. Sâu bướm Mopane

Sâu bướm Mopane – giai đoạn ấu trùng của sâu bướm hoàng đế (Imbrasia belina) – sống trên khắp phía nam của châu Phi. Khai thác sâu mopane là một ngành công nghiệp triệu đô trong khu vực này, nơi mà phụ nữ và trẻ em thường làm công việc thu thập các côn trùng nhỏ kiếm sống.

Sâu bướm thường được luộc trong nước muối, sau đó phơi khô, giữ trong vài tháng mà không cần làm lạnh. Chúng cung cấp một lượng lớn các nguồn dinh dưỡng. Hàm lượng sắt trong thịt bò là 6mg/100 gram trọng lượng khô, trong khi sâu bướm mopane cung cấp tới 31 mg sắt trên 100 gram. Nó cũng rất giàu các chất khác như kali, natri, canxi, phốt pho, magiê, kẽm, mangan, đồng….

 

6. Mối

Những người ở Nam Mỹ và châu Phi thường ăn loại côn trùng này bằng cách chiên, phơi khô, hun khói hoặc hấp trong lá chuối.

Mối thường chứa đến 38% protein, và một loài đặc biệt ở Venezuela, Syntermes aculeosus còn có tới protein 6%. Nó cũng rất giàu sắt, canxi, axit béo thiết yếu và các axit amin như tryptophan.

5. Ấu trùng Witchetty

Với những người thổ dân Úc, ấu trùng witchetty là một thứ thiết yếu trong chế độ ăn uống. Khi ăn sống, các ấu trùng có hương vị như hạnh nhân, trong than nóng, chúng có hương vị của thịt gà nướng. Chúng chứa rất nhiều các axit oleic, omega-9 không bão hòa Omega-9 rất có lợi cho sức khỏe.

Các ấu trùng được thu hoạch từ dưới lòng đất, nơi chúng sống nhờ vào các rễ cây của Úc như bạch đàn và cây keo đen.

4. Chapulines

Chapulines là loài châu chấu thuộc chi Sphenarium, và được coi là món ăn phổ biến trên toàn miền nam Mexico. Chúng thường được rang và pha thêm hương vị tỏi, nước cốt chanh và muối, bột ớt khô. Những con châu chấu được biết là nguồn giàu protein, một số cho rằng loài côn trùng này chứa hơn 70% protein.

3. Mọt cọ Châu Phi

Một món ăn của nhiều bộ lạc châu Phi, sâu đục cọ (Rhychophorus phoenicis) được thu từ các thân cây cọ. Cơ thể của mọt có nhiều chất béo nên chiên rất ngon, mặc dù chúng cũng có thể để ăn sống.

Một báo cáo năm 2011 từ Tạp chí Khoa học phát hiện ra rằng côn trùng sâu đục cọ châu Phi là một nguồn tuyệt vời của nhiều chất dinh dưỡng như kali, kẽm, sắt và phốt pho, cũng như một số axit amin và không bão hòa đơn lành mạnh và các axit béo không bão hòa đa.

2. Bọ xít

Bọ xít được tiêu thụ trên toàn châu Á, Nam Mỹ và châu Phi. Những con côn trùng này là một nguồn giàu các chất dinh dưỡng quan trọng, bao gồm protein, sắt, kali và phốt pho.

Vì mùi hôi phát ra là một mùi hương khó chịu nên không thể ăn sống trừ khi loại bỏ chất tiết hương thơm trên cơ thể của chúng. Thường thì chúng được rang, hoặc ngâm trong nước và phơi khô. Nước ngâm sẽ hấp thụ các chất tiết mùi hôi – có thể được sử dụng như một loại thuốc trừ sâu, mối ra khỏi nhà.

1. Ấu trùng bọ cánh cứng

Ấu trùng của bọ cánh cứng (Tenebrio Molitor) là một trong những loài côn trùng chỉ tiêu thụ trong thế giới phương Tây. Chúng được nuôi ở Hà Lan để làm thức ăn cho con người (cũng như cho động vật) một phần vì loài này sinh trưởng rất mạnh mẽ trong thời tiết ôn hòa.

Giá trị dinh dưỡng của mealworms rất lớn: giàu đồng, natri, kali, sắt, kẽm và selen. Ấu trùng cũng có thể sánh ngang với thịt bò về phạm trù protein, nhưng lại nhiều hơn thịt bò về số lượng các chất béo không bão hòa đa có lợi cho sức khỏe.

Theo Đẹp plus

Cách làm Bánh Da Lợn

Tuy tên là Bánh Da Lợn, không gọi Bánh Da Heo (theo phương ngữ miền trung và miền nam), nhưng đây là một món ăn đặc trưng, phổ biến ở miền Trung và miền Nam Việt Nam. Đây là món đặc sản của nhiều tỉnh, thường dùng trong dịp lễ, cúng chay cũng như ăn vặt. Mỗi nhà, mỗi tỉnh thường có một cách làm bánh riêng hơi khác nhau, nhưng về cơ bản, bánh da lợn phải có độ mịn, dai, thơm thơm mùi dứa.

Nguyên liệu:

Phần vỏ:

  • Bột năng: 300gr
  • Bột gạo: 50gr
  • Đường cát: 100gr
  • Lá dứa: 1 bó
  • Va ni: 1 ống
  • Nếu cần xanh bắt mắt thì thêm giọt màu thực phẩm xanh lá nhé!

Phần nhân:

  • Bột năng: 100gr
  • Bột nếp: 30gr
  • Đậu xanh cà vỏ: 200g – ngâm qua đêm (nhân này màu vàng, muốn làm màu trắng thì làm bằng đậu trắng)
  • Đường: 100gr
  • Muối: 1/3 muỗng cafe

Làm nước cốt dừa:

  • Dừa nạo: 300gr

Cách làm:

Công thức làm bánh da lợn này có 4 công đoạn chính:

1/ Làm nước cốt dừa và nước dảo dừa.

– Click vào xem CÁCH LÀM NƯỚC CỐT DỪA VÀ NƯỚC DẢO DỪA.

– Làm xong thì để nước cốt riêng, nước dảo riêng.

2/ Làm bột bánh (lớp màu xanh):

– Lá dứa rửa sạch cắt ngắn rồi giã cho nát, sau đó đổ 1,5 bát con (chén) nước vào, nhồi cho ra nước. Chế nước dão dừa vào đó, khuấy đều.

– Bỏ hết bã lá dứa ra ngoài, rồi dùng rây lược kĩ. Sau đó cho đường vào khuấy tan. Cho thêm 1 ống va ni tạo mùi thơm.

– Rồi đổ hỗn hợp trên vào chung với phần bột năng, bột gạo đã chuẩn bị. Vừa đổ vừa khuấy cho đều, cho kỹ, đổ đến khi nào bột khuấy lên nghe HƠI HƠI sệt, mềm mại, hơi lõng bõng, thì thôi, đừng có để khô hoặc quá loãng. Nếu mà khô quá thì đổ thêm nước lọc vào khuấy tiếp.

3/ Làm phần nhân bánh (lớp màu vàng):

– Đậu xanh cà sau khi ngâm qua đêm, thì đãi cho sạch vỏ, sau đó cho vào nồi đổ nước xâm xấp mặt, bỏ thêm chút muối, rồi bắc lên bếp hoặc hoặc cho vào nồi cơm điện nấu cho chín. Đậu chín xới tơi rồi dùng chày giã cho nát nhuyễn.

– Cho phần bột năng, bột nếp và nước cốt dừa vào trong chỗ đậu xanh này, Quấy đều, lược qua rây cho mịn.

4/ Hấp bánh:

– Chuẩn bị khuôn hấp (1 khuôn to hoặc nhiều khuôn nhỏ tùy bạn, có thể dùng khuôn bánh flan). Trét một lớp dầu ăn vào khuôn (để dễ lấy bánh ra sau khi hấp).

– Cố định khuôn trong xửng hấp, sau đó thì bắt đầu rưới 1 lớp hỗn hợp bột bánh lên, lớp này dày khoảng 3mm (càng mỏng càng mềm dễ ăn, nhưng mà càng cực vì phải làm nhiều lớp).

– Hấp cho tới khi thấy được được, bột gần chín (khoảng 5 – 7 phút tùy), thì nhỏ thử một tí hỗn hợp nhân đậu xanh lên lớp bột bánh, nếu như không bị lẫn vào lớp màu xanh là ok. Ta bắt đầu trét tiếp lớp bột nhân đậu xanh lên, độ dày cũng tương tự lớp bột bánh.

– Tiếp tục khi bột đậu xanh gần chín thì rưới tiếp lớp bột bánh vào…cứ thế cho đến khi nào gần hết bột, thì kết thúc bằng một lớp bột bánh ở trên cùng.

– Đợi bánh nguội thì lấy ra cẩn thận.

– Cắt bánh bằng sợi chỉ, KHÔNG CẮT BẰNG DAO.

– Chúc cả nhà ngon miệng nhé! 🙂

Bé Thúi

Bánh chưng, bánh dày vào top món ăn lễ hội thế giới

(TNO) Tạp chí du lịch nổi tiếng National Geographic (Mỹ) vừa công bố danh sách 10 món ăn truyền thống lễ hội đặc trưng trên thế giới, trong đó có bánh chưng và bánh dày của Việt Nam.

Bánh chưng Việt Nam được xếp vào danh sách 10 món ăn truyền thống đặc trưng trên thế giới, do tạp chí uy tín National Geographic bình chọn – Ảnh: Đào Ngọc Thạch

National Geographic nhận định Tết là dịp lễ quan trọng nhất của người Việt Nam, đánh dấu một năm mới với mùa Xuân và những kỳ vọng mới.

Đây là dịp để người Việt đoàn tụ với gia đình và cùng quây quần bên mâm cỗ mà không bao giờ có thể thiếu món ăn truyền thống là bánh chưng, với nhân thịt và đỗ xanh, xung quanh là gạo nếp, tạp chí Mỹ bình luận.

Tất cả được gói trong những chiếc lá dong, tạo nên chiếc bánh hình vuông, tượng trưng cho đất, cũng như bánh dày được làm từ nếp trắng giã mịn, hình tròn, tượng trưng cho trời, theoNational Geographic.

Trong danh sách 10 món ăn truyền thống của National Geographic còn có món “Bánh mì của người chết” của Mexico, một loại bánh cho “Ngày của người chết”, món Hákarl dùng trong lễ hội mùa đông của Iceland, món bánh trung thu cho ngày Tết Trung thu của Trung Quốc.

Ngoài ra còn có bánh Hamantaschen dành cho lễ hội Purim của người Do Thái, bánh Vua trong ngày hội Mardi Gras của Mỹ, bánh Besan Burfi có trong lễ hội ánh sáng Diwali ở Ấn Độ, bánh Kahk cho ngày hội Eid al-Fitr của Ai Cập, món Haggis dùng để thưởng thức trong lễ hội Burn của Scotland và món “Bánh cho ngày Cách mạng tháng 5” của Argentina.

Hoàng Uy (thanhnien.com.vn)

Cách bắt kỳ đà

Kỳ đà Việt Nam có 2 loại: sống trên núi rừng gọi là kỳ đà vân (clouded monitor), sống được dưới nước gọi là kỳ đà hoa (water monitor).

Ngày xưa kỳ đà phân bố nhiều ở miền Trung và miền Nam, bây giờ thì ở Thảo Cầm Viên Sài Gòn. Con kỳ đà lúc nhỏ khá đẹp, lớn lên bự cỡ con cá sấu, nhưng bụng to bằng bụng heo mọi. Kỳ đà tánh giống con trăn, hiền lành ít cắn, nhưng nếu cắn thì đau muốn bại xuội (trăn cũng vậy).
Kỳ đà trước khi bị bắt
Kỳ đà trước khi bị bắt

Do kỳ đà bản chất ưa hoang dã, rất khó thuần, nên ít ai nuôi để ôm ấp mà thường nuôi để lột da xẻ thịt.

Thịt kỳ đà vừa ngon, vừa bổ, đem bán cho nhà hàng trong nước được giá 250k – 300k/kg, ngoài nước được gấp mấy lần, tức là có giá trị kinh tế cao, nhưng ít người nuôi được kỳ đà đẻ, thường phải bắt con nhỏ về nuôi cho lớn rồi bán. Muốn bắt kỳ đà ta phải có kỹ thuật mới bắt được, vì kỳ đà là loài rất khoẻ mạnh, giỏi chạy và bám víu.

Sau một thời gian tìm hiểu, MVN đã tìm được 1 số kinh nghiệm hữu ích về bắt kỳ đà. Nay xin giới thiệu 2 cách (bắt sống và bắt chết) của bác Nguyễn Long Phi, 1 người hát cải lương nghiệp dư nổi tiếng của miền Tây Nam bộ:

Bắt sống

Nên biết là giống kỳ đà thích ở trong bọng cây. Hễ động động là chúng chun trốn, có trời mà kéo ra. Bốn chân nó giương móng thật sắc, bấu cứng vào bọng cây, nắm đuôi kéo ra chỉ có nước là đứt ngang thôi. Cách duy nhất là muốn bắt được kỳ đà chun trong bọng cây thì phải dần khúc đuôi cho nhừ ra, rồi lấy gừng thật cay đắp vô, chừng đó nó tự nhiên rũ riệt gân cốt, tuột ra thôi.

Vùng này có rất nhiều loại cây lớn mà bọng ruột như cây cuôi, tràm, trâm … kỳ đà về bao nhiêu cũng đủ chỗ để chun trốn. Mấy vạn săn Sông Đốc, Đường Ranh thảy đều thúc thủ vô mưu. Riêng tui, đâu có chịu thua một cách dễ dàng. Thấy kỳ đà về mỗi lúc một nhiều, tui đến tận chỗ nghiên cứu mấy ngày nghĩ ra cách bắt chúng.

Đã nắm được chỗ yếu của nó rồi, tui về làm bẫy cò ke, gài bắt sống độ vài chục con, loại kỳ đà đực, thứ chạy giỏi nhất. Mỗi con tui buộc vô chót đuôi một củ gừng già, rồi cứ thả cho nó về nhập bầy. Chờ lúc chúng kéo nhau ra đi ăn, tui mới dắt chó tràn đến rượt chí tử. Lũ kỳ đà chạy về chỗ trú, chun hết vô bọng cây. Một bọng cây lớn chúng chun vô đến mấy chục con. Mỗi cây còn có một con ló đuôi ra, vì nó chạy sau chót. Tui sai bầy trẻ bắt ong vò vẽ ra cho chích vào khúc đuôi của con sau chót ló ra ngoài đó. Con kỳ đà bị ong chích đuôi đau quá nên nghiến răng chịu đựng. Nó nghiến nhằm chót đuôi con trên. Con bị bạn nhai đuôi đau quá nên cũng nghiến răng chịu, lại nghiến vào chót đuôi con trên nữa. Cứ như vậy, chúng bắt từ dưới nhai đuôi nhau vần công dài lên. Lên tới con trên hết, con kỳ đà đực mà tui buộc một cục gừng đó. Nó bị bạn nhai vào cục gừng. Rồi con nhai cục gừng bị cay quá nên chảy nước miếng ra. Con kế dưới nhấm phải nước miếng cay cũng bắt đầu chảy nước miếng dài xuống như vậy. Nước miếng có chất gừng cay chảy dài xuống, tự thấm vào đuôi chúng và chúng tự rủ riệt gân cốt mà tuột ra khỏi bọng cây. Chừng đó mình mặc sức bẻ móng, rút gân, trói ké chúng, chở đem đi chợ bán.

Bắt chết

Giống kỳ đà ở rừng U Minh coi chạy như gà con vậy chớ không dễ gì bắt nó đâu. Một là chúng nhảy xuống sông lặn một hơi tới chiều chẳng chịu nổi lên, hai là có động, chúng chạy một cái rẹt, lẹ đến nỗi có một lần, con trước mặt dừng lại, con sau ngon trớn lao tới, đuôi con trước đâm vô họng con sau một cái trổ ra lỗ đít.

Kỳ đà sau khi bị bắtKỳ đà sau khi bị bắt

Tui nghĩ ra một cách. Rủ dượng Tư nó vác ván ngựa ra chận trong rừng xa xa, ngoài mé ruộng thì kéo bảy tám con trâu chết bỏ đó làm mồi nhử chúng. Bọn chúng xuất rừng, từng bầy, bò lọm thọm ra, đến bên những xác trâu chết, chúng chia nhau từng tốp mà ăn quýnh quáng. Tụi tui dẫn bầy chó săn phục kích sẵn ở mấy lùm sậy gần đó, chờ cho chúng ăn thật no nê rồi mới nhảy ra. Dượng Tư nó nạt: “Kỳ đà!”. Bầy chó ùa tới. Bọn kỳ đà trực nhìn thấy, liền hè nhau mang cái bụng ột ệt đâm đầu chạy ngay vô rừng. Chúng chạy đến đâu mửa vãi thịt trâu ra đến đó. Tụi tui cứ ở sau đuôi mà rà tới. Chúng chạy hàng ngay như sợi chỉ giăng, đuôi con nào cũng ngay băng lại sau như cây chĩa. Lúc rượt sâu vô mé rừng, tui nghe con chạy trước đâm đầu vô tấm ván ngựa mình đã chắn sẵn một cái bụp. Tức thì nghe một tiếng “rô… ột” kéo dài phía sau. Từng hàng dọc kỳ đà thúc sát nhau như một khúc cây nằm dài; vì đuôi con này đâm vô họng con kia thấu hết ra đít. Một “khúc cây” kỳ đà như vậy đến mấy chục con. Chừng đó mình mặc sức mà về nhà đánh trâu ra cột kỳ đà về.

TẢN MẠN VỀ THỊT KHO TÀU – món ngon ngày Tết

Tôi dám chắc rằng rất nhiều người cũng nhầm như tôi, tưởng rằng tên món này xuất phát từ Trung Quốc, là của người Tàu.

Nhưng rồi tôi cứ thắc mắc rằng ít khi thấy người Tàu ăn món này, mà nguyên liệu để dùng cho món thịt kho tàu, là thịt ba rọi, cái loại thịt có cả nạc, cả mỡ, cả bì, xếp từng lớp khéo léo cứ như người ta cố tình tạo ra nó, thì chắc chỉ có dân Việt.

Mãi cho đến khi đọc tài liệu về thịt kho tàu, mới thấy có cách giải thích hợp lý hơn cả: theo ông nhà văn Nam Bộ Bình Nguyên Lộc, chữ ‘tàu’, ở đây, theo nghĩa của người “miền dưới” là ‘lạt’, như sông Cái Tàu Thượng, sông Cái Tàu Hạ là hai con sông nước lợ. Như vậy thịt kho tàu không phải là thịt kho của người Trung Hoa, mà chỉ đơn giản là món thịt kho lạt.

Cũng có thuyết rằng, món thịt kho bên Tàu từ cái ông tể tướng Vương An Thạch đời Tống nghĩ ra, nhưng xem lại thì cái món thịt kho của ông, chả giống gì cái cách mà chúng ta thấy ở miếng thịt kho tàu xứ Việt. Vậy hóa ra cái món thịt kho mà được cả Bắc Nam hâm mộ ấy, đúng như lời giáo sư Trần Văn Khê nói: món thịt kho “tàu” hóa ra lại là “ta” hoàn toàn, món Việt trăm phần trăm.

Thịt kho tàu, cùng với bánh tét, dưa hấu, canh khổ qua dồn thịt, đã trở thành món không thể thiếu trong thực đơn ngày Tết của người Nam Bộ. Miếng thịt mềm rục có cả màu đỏ au của thịt nạc, trong trong của mỡ, nâu nâu của bì hầm nhừ, sóng sánh vàng ươm của nước màu chưng đường, kèm vị bùi của nước dừa xiêm, vị mặn của nước mắm đã được làm thanh đi bằng đường, thi thoảng có thêm vị hắc của chút xì dầu, điểm xuyết thêm mấy hột vịt luộc mà nước thịt ngấm đều từ trong lòng đỏ đến lòng trắng, đặt cạnh bát cơm trắng thơm nức trên bàn thờ ông bà, bên cạnh đĩa dưa chua, dường như đã thành truyền thống trong mâm cơm cúng tưởng nhớ ông bà tổ tiên.

Ở ngoài Bắc, có lẽ để phù hợp với khí hậu lạnh, món thịt kho tàu đã được thay thế bằng đĩa thịt đông trong mâm cơm cúng ngày Tết. Tuy nhiên trong bữa ăn hằng ngày mùa lạnh, thì món thịt kho tàu vẫn là một trong những món được ưa chuộng nhất. Thịt kho tàu ở ngoài Bắc, ít có nước dừa xiêm, nhưng vẫn không thể thiếu vị hành khô, nước mắm, vị của đường cháy tạo ra vị hơi ngọt, làm giảm cái mặn khát của các món kho thông thường, tạo màu vàng óng cánh gián quyến rũ.

Thịt kho tàu cũng như bao món kho khác, được nấu như món ăn để lưu trữ dài ngày. Nấu thịt kho tàu không khó, nhưng để nấu ngon, cũng không dễ chút nào. Miếng thịt mềm nhừ mà không nát, không bị quắt lại, màu thịt đỏ au ánh lên màu cánh gián, trứng vịt thấm đẫm nước thịt mà không đen, nước thịt vàng trong, không quá lõng bõng nước nhưng cũng không quá cạn làm khô miếng thịt.

Mỗi lần ăn có thể mang ra đun lại, càng nhiều lửa, thịt càng rục, càng mềm, càng ngon. Thịt kho tàu có thể được ăn với nhiều món, cơm trắng, dưa kiệu, dưa giá nhưng có lẽ phổ biến nhất là ăn kèm với dưa cải chua. Có lẽ vì mặn, vị ngọt, vị bùi béo của thịt kho tàu kết hợp với vị chua xen lẫn cay cay của dưa cải muối xối, tạo nên hương vị quyến rũ đến bất ngờ.

Nước thịt kho tàu chấm dưa cải, hay rưới vào bát cơm gạo mới nóng hổi, không cần ăn thêm gì cũng thấy ngon. Không chỉ có vì bùi béo của thịt, nước thịt kho ngấm vào trứng luộc đã bóc vỏ, tạo nên vẻ quyến rũ lạ kỳ cho quả trứng, khác hẳn với vị ngán rất khó nuốt của trứng luộc thông thường.

Có một món nữa chắc sẽ làm xiêu lòng người thích thịt kho tàu, là xôi trắng ăn với thịt kho tàu. Buổi sáng, làm bát xôi trắng, với mấy miếng thịt kho tàu, chan ít nước thịt kho tàu lên, đảm bảo chắc dạ đến trưa.

Người Nam bộ còn có món bánh tráng ăn với thịt kho tàu, vừa là món ăn chơi, nhưng khi kèm với thịt kho tàu, nó cũng trở thành món chính từ lúc nào. Miếng bánh tráng trụng qua nước, gói với rau thơm, đồ chua, kèm thịt, nhúng vào bát nước thịt đã dầm trứng, nêm thêm ít chanh với vài lát ớt cay, vừa ăn vừa xúyt xoa, còn gì bằng!

Có lần một chị bạn thốt lên với tôi “Sao đàn ông ông nào cũng thích ăn thịt kho tàu vậy ta ?”. Tất nhiên không chỉ đàn ông, mà rất nhiều người thích ăn thịt kho tàu, nhưng bảo là đàn ông ăn thịt kho tàu cũng có lý của nó. Không biết có ai đó nói với tôi rằng, dường như có cái gì đó liên tưởng giữa cái vị mềm mềm, ngọt thanh thanh dìu dịu của miếng thịt kho tàu với sự dịu dàng, giản dị trong tính cách của người phụ nữ trong gia đình.

Có thể người đó vì yêu món thịt kho Tàu mà nói quá lên đó thôi, nhưng rõ ràng là không phải là không có lý. Và có lẽ vì thế mà hầu hết đàn ông Việt, đều thích món thịt kho tàu chăng?

(Nguồn Tuoitre online)

NHỮNG MÓN ĂN SẼ KHIẾN BẠN PHẢI LUI TỚI ĐẮK LẮK NHIỀU LẦN

Đến với Dak Lak, du khách không chỉ hòa mình trong cuộc sống gần gũi với thiên nhiên, tìm hiểu nét văn hóa đậm bản sắc của các dân tộc nơi đây. Chuyến du lịch đến vùng đất đại ngàn còn là dịp để bạn khám phá những món ăn tuyệt vời mang đậm hương vị rừng núi.

Sau đây là danh sách một số món ăn có hương vị độc đáo, ngon lành sẽ khiến bạn phải lui tới vùng đất này thêm nhiều lần nữa.

1. Gà nướng sa lửa

Combo tuyệt vời cho món gà nướng này là cơm lam và muối sả

Gà nướng sa lửa là một trong những biến tấu của món gà nướng Bản Đôn. Nguyên liệu chính là những con gà ta chính hiệu cùng cách chế biến nướng trên lửa than. Khách cũng chấm gà với muối ớt hoặc muối sả. Tuy nhiên, gà nướng sa lửa dùng kẹp tre thay vỉ nướng. Bên cạnh đó, gà không được tẩm ướp hay trước khi nướng. Cách nướng này khiến thịt gà thơm hơn, chắc hơn và vẫn giữ nguyên vị ngọt của thịt.

2. Gỏi lá

Với sự hiện diện của hơn 40 loại lá rừng khác nhau, người ta gọi món ăn này là gỏi lá song nếu xét về cách thưởng thức là kẹp đủ các loại lá, bỏ vào đó thịt, tôm, da heo và các gia vị như tiêu nguyên hạt, muối hạt, ớt cay xanh… sau đó chấm với nước dùng, nói món ăn này thuộc họ cuốn chấm sẽ chính xác hơn.

 

Ngoài cái đặc biệt của việc hơn 40 loại lá cây tham gia vào món ăn, nước chấm của gỏi lá được làm từ hèm rượu, được khử qua dầu ăn, lẫn cùng trứng vịt thành loại nước chấm sền sệt. Món ăn có hương vị khá lạ.

3. Lẩu lá rừng

Gọi là lẩu song lẩu rau rừng giống món canh hơn, với 10 loại lá rừng được chọn lọc nấu cùng tôm khô hoặc thịt các loại.

Món “lẩu” lá rừng này được chế biến đầu tiên bởi những người dân tộc Ê đê khi phải đối diện với cuộc sống khó khăn. Để có thức ăn hàng ngày, họ đã vào rừng để hái những loại lá khác nhau về nấu canh. Trải qua thời gian, “lẩu” lá rừng đã trở thành món đặc sản của người dân tộc bản địa và du khách.

4. Thịt nai

Thịt nai tươi khác thịt bò ở chỗ ít gân, mỡ màu trắng ngà, mềm hơn cả thịt bê non. Nai được chế biến thành nhiều món như nai xào làn, nai nhúng giấm, nai lúc lắc, sườn nai rán, cháo bao tử…

Bạn có thể thưởng thức món thịt nai tại nhà hàng đặc sản tại trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột. Giá cả khá mềm và chất lượng ổn.

5. Rượu cây

Xét về cách ủ, lên men, rượu cây không khắc biệt với các loại rượu khác của Tây Nguyên. Điểm đặc biệt của loại rượu này là tên gọi xuất phát từ thói quen uống rượu dưới gốc cây cùng tập tục lang thang trong rừng sâu của người Bahnar, Xê Đăng, Jrai… trong tháng Ninh Nơng (tháng sau khi kết thúc mùa rẫy).

Dù không phải thật sự là loại rượu đặc sắc, song cái thú nhắm rượu cùng các món thịt rừng nướng nóng hôi hổi trong cái mát mẻ, hoang sơ tại một gốc cây nào đó trong rừng sâu sẽ mang đến cho bạn những trải nghiệm tuyệt vời.

Theo Huỳnh Hằng (Infonet)

Cách làm CHÈ ĐẬU TRẮNG NẤU NẾP

Món chè đậu trắng nấu với nếp rất quen  thuộc trên các mâm cỗ của người miền Trung, miền Nam. Món ăn có vị ngọt dịu, thơm ngon của đậu và nếp.

  Nguyên liệu: 

  • 500g đậu trắng (đậu mắt cua)
  • 150g nếp
  • 250g đường
  • 10g lá dứa
  • 1 muỗng canh bột năng
  • 1 muỗng cafe bột nổi
  • Mè rang giã nát.
  • Nước cốt dừa (xem CÁCH LÀM NƯỚC CỐT DỪA)

Cách làm:

 

– Vo sạch đậu rồi ngâm trong nước + 1 muỗng cafe bột nổi, ngâm ít nhất 3 tiếng cho đậu bong vỏ. Vớt bỏ những hạt nổi lên mặt nước.

– Đậu ngâm xong cho nước xâm xấp vào nấu tới khi đậu chín nhừ, do đã ngâm bột nổi nên đậu rất mau chín.

– Đậu chín vớt ra để ráo, ướp với đường trong 2 tiếng.

– Lá dứa rửa sạch, để ráo.

– Bắc một nồi với khoảng 700ml nước, nấu sôi, rồi cho nếp vào nấu tới khi nào nếp nở bung ra. Cho lá dứa vào nấu tiếp khoảng 10 phút.

– Tiếp tục trút đậu đã ướp đường vào nồi, khuấy đều, vặn nhỏ lửa, nêm nếm lại vừa miệng, nấu tiếp 5 phút là xong.

– Nước cốt dừa ta pha với chút nước & bột năng, đun trên lửa, vừa đun vừa khuấy đều tới khi vừa sôi, hỗn hợp quyện lại là ok. Cái này để rắc lên chén chè. Rắc thêm mè giã nát nữa cho thơm.

Hải Hùng.

HÌNH ẢNH XƯA VỀ ẨM THỰC SÀI GÒN [Phần 1: Giải khát]

Bạn có bao giờ tự hỏi cách đây tầm một thế kỉ, hoặc năm bảy chục năm, dân Sài Gòn có thói quen ăn uống như thế nào? Có những gì giống, những gì khác so với bây giờ? Hãy cùng xem lại những hình ảnh dưới đây nhé! 


Xe bán nước dạo thập niên 1940

Cô hàng nước nhỏ tuổi với nụ cười chất phác, ô kìa, phía sau có phải là Cầu Mống?


Nước ngọt Con Cọp lừng lẫy một thời, nay đã là dĩ vãng

Bia Lade Trái thơm từng rất được ưa chuộng. Gọi “Lade trái thơm” nhưng món bia này chẳng dính dáng gì tới trái thơm cả, chỉ vì hai dây hoa trên nhãn hiệu có hình giống …trái thơm, nên dân ta gọi vậy cho dễ nhận diện.

Bia 33, sau đó vài chục năm, nó mọc thêm số 3 trong tên gọi.


Nước ngọt Con Cọp, bia 33 hay bia La De (Larue) đều là sản phẩm của công ty BGI (viết tắt của Brasseries & Glacières De L’Indochine)

Một cửa hàng bán bia và nước ngọt các loại vào những năm 60. Chữ “Lave Larue” ở góc trái cũng là lý do vì sao bia Larue hay được gọi là bia “La De”


Nước ngọt Coca Cola thâm nhập thị trường Việt Nam vào đầu thập niên 1960


Phút nghỉ ngơi của anh bán nước


Nước cam không ga Bireley’s rất được nữ giới ưa chuộng

Xe nước mía, chẳng khác ngày nay là mấy


Một xe nước mía ép tay

Bà con ăn chè bên xe chè của người Hoa. Xe chè người Hoa làm cầu kỳ, nhiều họa tiết điển tích rất đẹp mắt.


Xe đẩy bán rau má, nước ngọt. Có thể thấy người bán đang chặt đá, kế bên là thanh gỗ để làm đá bào (dành cho món xi rô đá bào mà học sinh rất yêu thích)


Xe bán sinh tố trên đường Nguyễn Cư Trinh (quận 01)

Nước ngọt đóng bịch, bánh tổ, và cô gái có phong cách rất mô-đen sành điệu.

Xe bán nước giải khát và quán cà phê nhỏ xíu bên vỉa hè.

Tiếng đồn MÌ QUẢNG PHÚ CHIÊM…

Ít ai biết rằng “cái nôi” của mì Quảng là ở làng Phú Chiêm, xã Điện Phương (Điện Bàn – Quảng Nam), nơi mà tô mì vẫn giữ nguyên truyền thống, hương sắc dân dã, không lẫn vào đâu được.

Ngày nay, món mì Quảng theo chân các cư dân Quảng Nam – Đà Nẵng lan toả khắp vùng miền đất nước từ Nam chí Bắc. Nhưng ít ai biết rằng “cái nôi” của mì Quảng là ở làng Phú Chiêm, xã Điện Phương (Điện Bàn – Quảng Nam), nơi mà tô mì vẫn giữ nguyên truyền thống, “hương sắc” dân dã, không lẫn vào đâu được. Ai đã một lần ăn thì không thể nào quên.

Chúng tôi đến làng Phú Chiêm vào một ngày cuối tuần, khi nắng vàng trải dài trên ruộng đồng, nơi làng mạc của một miền quê nghèo miền Trung đầy nắng gió. Làng Phú Chiêm nép mình bên con đường nhựa nhỏ, vẫn những hàng cau, khóm chuối, bụi bờ.

Nồi nước nhưn hấp dẫn

Nơi đây, bạn có thể thấy được các bà, các chị với quang gánh quảy đi bán dạo món mì Quảng hoặc ngồi bán ở dưới gốc cây đa hay một quán cóc bên đường. Sau khi dạo một vòng quanh làng, chúng tôi vào “gánh mì” của bà Bà Ngô Thị Tài (78 tuổi) ở bên đường. Miệng đang ăn trầu, bà Tài vui vẻ đọc thơ: “Thương nhau múc chén chè xanh, làm tô mì Quảng để anh ăn cùng”.

Đọc xong, bà cho biết chỉ còn lại 3 tô mì cuối cùng thôi. Trong lúc dọn mì phục vụ, bà Tài tâm sự:

“Tôi theo nghề bán mì từ thời còn con gái, khoảng 60 năm rồi. Lúc bấy giờ, đôi chân còn mạnh khoẻ, tôi gánh mì đi bán tứ xứ: gần thì Điện Thắng, Điện Bàn, Vĩnh Điện xa thì đi ô tô đến Đà Nẵng, Hội An, Tam Kỳ để bán.

Nhờ mì Quảng Phú Chiêm có sẵn thương hiệu, giá cả lại bình dân nên được khách hàng ưa chuộng. Hằng ngày, tôi thức dậy lúc 3 giờ sáng, chế biến đến 6 giờ là gánh đi bán, bán đến 10 giờ thì hết mì. Mỗi ngày bán khoảng 8 kg mì, lãi khoảng 70.000 đồng.

Ngày trước, chế biến món mì Quảng khá lâu, bây giờ máy móc, dịch vụ về tới nông thôn, nên mỗi làng có vài nhà chuyên tráng mì để cung ứng cho cả trăm gánh mì trong thôn. Đến rau sống, đậu phụng rang cũng do một người chuyên cung cấp. Chúng tôi chỉ lo nấu nồi nước nhưn cho đậm đà, thi vị mà thôi”.

Nhìn tô mì Phú Chiêm của bà khá đẹp mắt với màu đỏ của nhưn tôm, màu vàng của đậu phụng giã dập, màu nâu của bánh tráng nướng vàng, màu xanh non rau sống và ớt trái… Chúng tôi ăn hết 3 tô mì của bà, mà vẫn còn thòm thèm giữa khung cảnh làng quê. Giá rất đỗi bình dân: 12.000 đồng/tô.

Bà Tài cho biết bí quyết để có tô mì ngon thì khâu đầu tiên là sợi mì được làm từ gạo xay thật mịn và phải là gạo xiệc ngon từ những cánh đồng phù sa ven sông Thu Bồn, khi đúc mì mới có những lá mì mềm mướt, trắng nõn, dai dẻo.


Bà Tài đang giới thiệu mì Quảng Phú Chiêm truyền thống do bà chế biến.

Sau khi tráng một lớp dầu phộng đã khử củ nén cho thơm lên lá mì, gấp lại rồi xắt thành từng cọng như cọng phở; Nồi nước nhưn có thể được nấu bằng nhiều loại nguyên liệu khác nhau như thịt heo, bò, gà vịt, tôm, cá lóc, ếch, mỗi thứ nguyên liệu lại mang đến một hương vị riêng.

Nhưng theo những bậc sành ăn ở xứ Quảng thì nước nhưn mì Quảng truyền thống chỉ nấu với thịt heo (ba chỉ) và tôm. Đó là nét đặc trưng chỉ có làng Phú Chiêm vẫn trung thành với nồi nước nhưng đó; Rau sống ăn kèm với mì khá phong phú, thường là rau muống chẻ mỏng, búp chuối, thân cây chuối non xắt mỏng, các loại rau thơm.

Ăn mì Quảng không thể thiếu ớt xanh, loại ớt sừng trâu phải cắn từng miếng ớt giòn tan, thơm nồng cay đáo để, còn nếu muốn ngon hơn thì phải kèm theo bánh tráng nướng vàng ươm. Bánh tráng được tráng từ bột gạo xay mịn. trộn thêm mè, tỏi, nước mắm, bột ngọt, khi nướng lên thơm lừng hương đồng cỏ nội.

Mì quảng là món có thể ăn bất cứ chỗ nào, lúc nào. Đất Quảng Nam, trong những dịp lễ lạt, cưới hỏi, tang tế, việc làng, tộc họ, đãi thợ thầy, ăn nửa buổi ngoài đồng bao giờ cũng có mì Quảng. Khách đến lúc nào dọn ăn cũng được, không đòi hỏi phải nóng sốt như phở, bún bò.

mi-quang-phu-chiem2Mì Quảng “chính gốc” đã sẵn sàng cho thực khách thưởng thức.

Ăn mì Quảng phải ăn nhanh và càng đông người ăn càng ngon miệng, cách ăn ấy bộc lộ một phần cá tính của người Quảng Nam là bình dị, dân dã và có tính cộng đồng làng, xã rất cao.

Ngày nay, quanh khu vực làng Phú Chiêm như Thanh Chiêm, Triêm Nam, Đông Khương (xã Điện Phương) có gần 200 phụ nữ hằng ngày thức dậy từ 1 giờ khuya để chế biến mì Quảng đến 3giờ sáng, sau đó lên Quốc lộ 1A đón xe ra Đà Nẵng, xuống Hội An, vào Tam Kỳ để bán.

Khoảng 5g sáng là xe ra tới Đà Nẵng. Các bà, các chị lại tỏa xuống chuẩn bị thúng mủng, gióng mây. Họ quảy gánh trên vai, một đầu là thúng đựng sợi mì xắt sẵn, đầu kia là nồi nước nhưn đỏ lửa, tỏa khói và thơm nức, miệng cất tiếng rao lanh lảnh: “Ai “en” mì Quảng Phú Chiêm đây”. Tiếng rao trên đường phố nghe sao mà dân dã, thấm đậm tình quê, khiến những kẻ xa quê thấy cồn cào, nôn nao tất dạ.

Các bà, các chị cho biết: Những gánh mì Phú Chiêm thường chỉ bán mỗi buổi sáng. Hôm nào lời nhiều khoảng 70.000 đồng. Buổi sáng rong ruổi với gánh mì, buổi chiều những người phụ nữ lại trở về tảo tần với bao nhiêu công việc nhà cửa, ruộng đồng, heo quéo. Khuya đến các bà, các chị lại tất bật lo chuẩn bị gánh mì Quảng để ngày mai dậy sớm ra Đà Nẵng rong ruổi gánh đi bán.

Mì Quảng Phú Chiêm bây giờ đã theo chân những người con tha hương của huyện Điện Bàn (Quảng Nam) đến khắp các vùng miền của cả nước, nhiều nhất ở khu vực ngã tư Bảy Hiền (TP.HCM).

Theo Hòa Vang (Dân Việt)

 

Mẹo rửa sạch đồ khi làm bếp

41-battrangMít ăn thì ngon, nhưng nhựa rất khó tẩy.

Gọt su su nhựa bám vào tay, hay bát bị ố vì giã nghệ rất khó chịu. Xin mách bạn mấy mẹo nhỏ.

Rửa sạch nhựa cao su: Bạn hãy lấy một ít tro bếp xát vào tay, sau đó rửa lại bằng nước sạch. Nhựa sẽ biến mất.

Tẩy vết nghệ bám vào xoong, bát: Bạn hãy lấy một ít lòng trắng trứng gà hoặc vịt, chà mạnh vào những chỗ có nghệ sẽ làm xoong, bát trắng lại như ban đầu.

Dao dính nhựa: Cắt mít, đu đủ dao thường bị dính nhựa, nếu lau bình thường thì rất khó sạch. Một số người dùng dầu hỏa tẩy cũng có thể sạch nhưng lại bị mùi. Bạn hãy lấy một miếng giẻ, nhúng dầu ăn rồi chùi cho đến khi sạch thì thôi.

Giã gừng không bị bắn: Khi giã, bạn hãy cho vào cối một chút muối, như thế gừng sẽ không trơn và bắn ra ngoài nữa.

 

(Theo Thế Giới Phụ Nữ, số 11)

Món ngon tẩm bổ thức đêm cùng World Cup

Với tần suất thức đêm xem World Cup liên tục như mấy ngày qua, chắc chắn sức khỏe của anh xã, thậm chí là cả bạn bị giảm sút. Một số món ăn vặt sau có thể giúp bạn vừa tỉnh táo xem bóng, vừa đảm bảo sức khỏe cho mình.

 Cứ mỗi mùa World Cup là một mùa thức đêm về của những người hâm mộ quả bóng trònvà các cầu thủ tài năng thế giới. Thức đêm nhiều dĩ nhiên sẽ đói và ảnh hưởng đến sức khỏe. Nếu là một người vợ tâm lý, chiều chồng, chắc hẳn bạn sẽ không ngại chế biến những món ăn đêm cho ông xã vừa hào hứng xem bóng vừa vẫn đảm bảo sức khỏe. Một số món ăn gợi ý sau chắc chắn sẽ khiến ông xã nhà bạn mê ly:

1. Chân gà nướng

Vừa xem bóng đá, vừa uống bia nhắm chân gà nướng thì còn gì bằng. Hãy trổ tài nội trợ đãi chồng bằng món chân gà nướng mật ong mê ly nhé.

Nguyên liệu:

– Chân gà công nghiệp.

– Mật ong, hạt nêm, dầu hào, dầu ăn, tỏi băm nhỏ.

Thực hiện:

– Chân gà sau khi mua về ngâm 10 phút với nước muối pha loãng rồi bóp rửa thật sạch, đem chần qua với nước gừng cho thơm rồi vớt ra để ráo.

– Pha nước sốt để ướp gà gồm các gia vị ở phần nguyên liệu, quấy đều cho các gia vị tan và hòa quyện vào nhau.

– Ướp nước sốt với chân gà trong 30 phút đến 1 tiếng cho ngấm.

– Nướng chân gà bằng than hoa hoặc lò nướng (nếu nhà bạn có).

– Thêm ít tương ớt hoặc đĩa muối chanh ớt là bạn đã có món chân gà nướng mật ong thơm, ngon cho ông xã cháy cùng trận bóng rồi.

2. Chân gà luộc

Đơn giản hơn chân gà nướng mật ong, bạn có thể làm món chân gà luộc.

Cũng công đoạn ngâm bóp rửa sạch chân gà như trên, sau đó bạn đun sôi nồi nước, cho chân gà vào luộc chín.

Sau đó, vớt chân gà ra đĩa và cho vào ngăn mát tủ lạnh. Cách này giúp chân gà ngon, giòn hơn.

Thêm một đĩa muối chanh ớt nữa là đã có món nhậu cho “fan hâm mộ bóng đá” của bạn rồi.

3. Bò khô

Nếu lo ngại chất lượng bò khô bẩn, tẩm hóa chất ngoài hàng thì bạn có thể tự tay chế món này đãi chồng.

Chuẩn bị:

– Thịt bò thăn

– Sả, tỏi, đường, bột ngũ vị hương, ớt bột hoặc ớt tươi, dầu hào, muối.

Thực hiện:

– Thịt bò thái thành miếng mỏng khoảng 3-4mm, dọc thớ, bản to.

– Băm nhỏ sả, tỏi, ớt.

– Cho thịt bò vào ướp cùng các gia vị chuẩn bị, sau đó để ngăn mát khoảng 8 tiếng.

– Cho tất cả thịt cùng nước ướp tiết ra từ thịt vào nồi đun nhỏ lửa, đậy kín vung. Thỉnh thoảng bạn nhớ lật đều các mặt thịt. Đun đến khi cạn nước thì tắt bếp. Đem thịt ra để nguội rồi dùng chày cán mềm, mỏng. Sau đó, bạn có thể xé sợi hoặc để nguyên miếng tùy ý.

– Tiếp tục cho thịt lên khay nướng, sấy ở nhiệt độ 110 độ C, 10 phút bạn lại đảo đều 1 lần đến khi đạt độ như ý muốn. Hoặc nếu không có lò nướng thì bạn có thể cho lên chảo đảo khô, để lửa nhỏ để tránh thịt bị cháy.

4. Nem tai

Chuẩn bị:

– Tai lợn.

– Bột gạo thính, riềng, tỏi, ớt, lá chanh, húng lá, húng bạc hà, kinh giới, lá sung.

Thực hiện :

– Tai lợn cạo sạch lông, bóp với muối, dấm, chanh để khử hết mùi hôi rồi luộc chín.

– Sau khi luộc, bạn vớt ra cho vào bát nước sôi để nguội thì tai sẽ trắng giòn hơn.

– Sau đó thái mỏng tai.

– Riềng, tỏi giã nhỏ, các loại rau thơm đem cắt khúc, ớt thái lát, lá chanh thái chỉ.

– Phần tai lợn bạn bóp trộn với riềng, tỏi, lá chanh và bột canh cho vừa miệng. Khi tai đã ngấm các gia vị thì từ từ rắc thính gạo vào, vừa rắc vừa trộn đến khi thính bám, phủ đều thì dừng lại.

– Cuối cùng cho rau và ớt vào.

– Bày lá sung và nem tai ra đĩa, thêm nước chấm mắm,

Như vậy là bạn đã có đĩa nem tai đãi chồng xem bóng đá rồi.

5. Mì tôm trứng

Có lẽ mì tôm trứng là món nhanh, gọn nhất cho ông xã và bạn xem bóng.

– Chỉ vần chuẩn bị thùng mì tôm cho cả mùa giải, trứng gà, hành, cà chua, hoặc thêm ít rau chần qua là đã có bát mì tôm thơm, ngon, đủ chất rồi.

Cách làm:

– Đảo thơm hành, cà chua rồi cho nước vào.

– Chần chín trứng gà, rau.

– Cho mì tôm và gia vị vào vừa sôi nước thì tắt bếp.

– Thêm ít hành lá nữa là bạn đã có tô mì tôm thơm, ngon, đủ chất xem bóng đá rồi.

6. Lạc rang tẩm muối

Chuẩn bị: 

– Lạc

– muối

 Cách làm:

– Làm nóng chảo, cho ít dầu ăn vào đun nóng.

– Cho lạc vào rang chín.

– Khi thấy vỏ lạc nứt, tách vỏ ra, màu nhân lạc vàng và dậy mùi thơm là lạc đã chín rồi.

– Đổ lạc ra bát để khoảng 2-5 phút, rắc thêm muối gia vị trộn đều.

– Bạn có thể trữ trong hộp để lai rai trong những trận sau.

Chúc các bạn thực hiện thành công những món ăn này nhé

Theo Hạ Vy (Đời sống & Pháp luật)

Mùa măng cụt quê nội và ký ức tuổi thơ

1403324112-898c5

Thiên nhiên xứ nhiệt đới đã ban tặng cho mỗi miền quê những loài hoa thơm quả ngọt. Và cứ như thế, mỗi mùa mỗi loài hoa quả khác nhau làm nên sự thảo thơm, ngọt bùi nơi miền thôn dã.

 

Hàng năm cứ bắt đầu vào mùa mưa, khoảng từ tháng 5 đến tháng 8 là mùa trái cây ở quê chín rộ. Miền Đông Nam Bộ, một vùng đất đỏ ba dan cây trái quanh năm xanh tốt, khí hậu trong lành, một địa danh nổi tiếng đã bao đời nay với đủ loại cây ngon trái ngọt – nổi bật hơn hết “có lẽ” chính là “Măng cụt”. Một trong 50 loại trái cây nổi tiếng của Việt Nam do Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam bình chọn.

Măng cụt ở quê nội tôi là loại cây chính gốc Mã Lai được các nhà truyền giáo phương Tây đưa về trồng từ 200 năm trước và được nhân giống rộng rãi cho tới tận bây giờ. Măng cụt là một loại cây ăn quả nhiệt đới, họ Bứa, có thể cao tới 20–25 m sống rất lâu năm. Lá dày, dai, màu lục sẫm, hình thuôn dài. Hoa đực cụm 3-9 hoa có lá bắc. Hoa lưỡng tính có cuống có đốt.

Quả hình cầu, to bằng quả cam trung bình, vỏ ngoài màu đỏ tím dày cứng, trong đỏ tươi như rượu vang, dày xốp, phía dưới có lá dài, phía đỉnh có đầu nhụy Từ khi trồng đến khi ra trái lần đầu là 6 năm. Trong quả có từ 6 đến 18 hạt, quanh hạt có áo hạt trắng, ăn có vị ngọt mát thơm ngon. Cây măng cụt được trồng nhiều ở các tỉnh phía Nam nhờ có khí hậu nóng ấm nên cây dễ thích nghi và phát triển tốt.

Cứ đến mùa hè là người ta lại ngóng đến mùa măng cụt, là thứ quả rất được nhiều người ưa chuộng. Măng cụt là loại cây ăn quả được mệnh danh là “nữ hoàng của các loại trái cây” vì nó ngon nhất trong các loại hoa quả vùng nhiệt đới.

Những quả măng cụt chín màu tím thẫm, bên trong là từng múi trắng như sữa, thịt quả mềm có vị ngọt thanh dịu pha một chút chua nhẹ rất dễ ăn, thấm từ đầu lưỡi tới cuống họng thật sảng khoái dễ chịu, quả măng cụt rất giàu dưỡng chất như: chất đạm, chất béo, chất carbonhydrates, chất xơ, calsium, chất sắt, phốt pho,… và vitamin như B1, vitamin C. Nhưng trong vỏ màu sậm lại chứa nhiều chất chống oxy hóa, giúp ngăn ngừa ung thư.

Trong khu vườn nhà nội tôi quanh năm đầy hoa trái. Gần năm sào đất với các lọai cây như : Xoài, ổi, mận, chôm chôm, sầu riêng, sa bô. Mỗi thứ một ít, thứ ăn lâu năm thứ mới cho quả mùa đầu. Mùa nào thức ấy, mỗi loại mang một hương vị riêng.

Còn nhớ mãi ngày xưa khi tôi còn học tiểu học, những khu vườn cây ăn quả luôn là một không gian yên ả ở vùng quê, mà cả thời thơ bé tôi luôn thấm đẫm trải qua tuổi thơ tung tăng rong ruỗi khắp vườn, cứ chân đất đầu trần mà lùng sục khắp nơi. Suốt ngày leo trèo nghịch ngợm phá phách.

Dưới cái nắng sáng sớm tháng 5, giữa vườn nghe xao xác tiếng gà trưa, tiếng gió rượt đuổi nhau xào xạc trên từng ngọn lá, ngã mình nằm trên thảm lá khô vừa học bài vừa thưởng thức các loại cây trái trong vườn, rồi ngủ say sưa ngon lành dưới bóng cây mát rượi, trên đầu là đủ thứ trái cây chín ngon ngọt.

Nội tôi lúc ấy còn khỏe lắm, bà thường mang chiếc võng ra giăng dưới gốc măng cụt ngoài vườn, tôi cũng bon chen “ké” một góc, hai bà cháu vừa đung đưa chiếc võng vừa nhìn lên những quả măng cụt no tròn núp sau tán lá. Theo tay nội chỉ: bà đố cháu xem quả này có bao nhiêu múi? Tôi chỉ việc nhìn bông hoa nổi lên phía dưới quả ấy mà đếm, “bông hoa” đó có bao nhiêu cánh thì trong quả măng cụt sẽ có bấy nhiêu múi.

Nụ hôn nồng ấm đặt vào má, nội khen tôi thông minh! chứ có nào ngờ đâu tôi đã ăn măng cụt của Nội đến muốn “mòn” cả răng và như một thói quen lại thêm cái tính “tọc mạch” của tuổi thơ, trước khi ăn bất kỳ quả nào tôi cũng không quên đếm số cánh hoa của mỗi trái và tôi thấy đúng “y boong”.

Rồi những năm, tháng, ngày cứ lặng lẽ trôi qua. Giờ đây xa quê đã lâu, trong cái nắng tháng 5 oi ả, với những cơn mưa bất chợt vào buổi chiều, tiếng ve bắt đầu râm ran trong những tán lá phượng, tàng lá me bên đường, lòng tôi lại quay về miền ký ức xa xưa.

Tôi nhớ về tuổi thơ tôi với rất nhiều kỷ niệm, chất chứa sự hồn nhiên trong sáng và những tháng ngày vui vẻ biết bao nhiêu, ngày ấy nơi miền quê vật chất cái gì cũng thiếu thốn, nhưng ai nấy đều vui vẻ mãn nguyện, không tham lam, không vụ lợi và chỉ có những tình thương yêu.

Tôi tuy sinh ra và lớn lên trên vùng đất thuần nông, nhưng “thuyền theo lái gái phải theo chồng”. Hơn mười năm qua, tôi ở chốn Thị thành đầy bon chen… tiếng xe cộ ồn ào đô thị, hàng giờ đối mặt với bộn bề công việc, muốn tìm không gian yên ắng hít thở không khí trong lành cho tâm hồn nhẹ nhàng thanh thản, muốn tìm nơi vắng vẻ để được sống “chậm” hơn chút xíu cũng thật là khó.

Vì cuộc sống luôn phải vật lộn với gạo tiền, miếng cơm manh áo, chẳng mấy khi rảnh rỗi để về thăm lại chốn quê xưa, nhưng trong tâm trí tôi luôn canh cánh một điều: Dù có đi bốn phương trời thì quê mình vẫn là tuyệt nhất…

Nó đưa ta trở về với tuổi thơ yên bình và cả “dữ dội” nữa. Hôm nay chợt nhận ra mình đã không còn trẻ nữa. Tuổi thơ đã đi qua thật nhanh nhưng đọng lại trong ký ức thật nhiều. Đó cũng là nỗi day dứt của những người con xa quê mỗi khi khắc khoải nhớ về kỷ niệm cũng như hương vị quê nhà.

Mùa hè sắp tới cũng là mùa măng cụt bắt đầu vào vụ, tôi “tranh thủ” trở lại quê nhà, trước là thăm viếng mộ phần ông bà tổ tiên, thăm vườn cây trái trải qua thời gian bao nhiêu năm không về, thế mà nó vẫn xanh um tươi tốt như thuở nào, những trái măng cụt “u nu úc núc” đang dần chuyển màu vào mùa chín rộ.

Những cây măng cụt Nội trồng năm xưa nay đã già lắm rồi. Người ta thường bảo “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” nhưng người trồng cây nay cũng đã ra người thiên cổ, cảnh cũ thì còn đó nhưng người xưa đâu rồi? Tôi chỉ muốn giữ mãi hình bóng của Nội và những kỷ niệm đẹp thời thơ ấu của tôi, để đôi khi nhớ đến lại thấy lòng mình lâng lâng một cảm giác thật kỳ lạ khó tả.

 

Theo Mỹ Nhân (Dân Việt)

Những quán bún đậu nổi tiếng Hà Thành


– Một món ăn dân dã nhưng không kém phần hấp dẫn đó chính là bún đậu mắm tôm Hà Nội. Nếu từng một lần được thưởng thức món ăn dậy mùi, đa sắc này, chắc hẳn bạn sẽ không thể nào quên.

Nếu đến các hàng bún đậu vỉa hè, nguyên liệu chính của món ăn này chỉ là bún, mắm tôm, đậu rán, rau thơm hoặc thêm vài lát chả giò. Cũng bởi thế nên giá cả phải chăng, khoảng 10-15.000 đồng/đĩa, thu hút sinh viên, người lao động thu nhập thấp.

Tuy nhiên, nếu là một người sành ăn, bạn có thể ghé vào các quán “sang chảnh” hơn chút đỉnh để thưởng thức bún đậu cùng các món ăn đi kèm như chả cốm, nem tai, chân giò luộc, lòng luộc, nem… Gọi là sang chảnh nhưng cũng chỉ thêm mấy chiếc ghế tựa lưng, ngồi trong nhà hay chỉ là ngõ hẻm mà không phải gánh hàng rao trên phố.

Cùng ghé thăm một số địa điểm bún đậu nức tiếng Hà thành để nhớ, để thương món ăn dân dã ấy.

1. Bún đậu mắm tôm Nghĩa Tân

Quán nằm ở 104 C3 khu Nghĩa Tân, Cầu Giấy với không gian đậm chất dân dã với những mẹt bún đầy ắp, dậy mùi thơm phức. Món bún đậu ở đây được bày cả ra một mẹt, với bún lá cùng mùi thơm của đậu rán giòn, xen lẫn tiếng lèo xèo rộn rã của chảo dầu nóng, cùng chả cốm chiên, thịt ba chỉ, chân giò sẽ khiến bất cứ thực khách nào cũng phải… nao lòng.

Mắm tôm ở đây được pha theo khẩu vị miền Bắc, đặc sệt, đánh lên thành bọt trắng thơm nức. Rau sống được rửa kỹ càng và diệt khuẩn bằng thiết bị ozon giúp người ăn yên tâm. Ngoài ra, thực khách còn có thể gọi thêm nhiều món ăn khác được treo ngay ngoài quán với giá cả dễ chịu từ 15.000 đồng.

Tới đây, bạn có thể gọi thêm một đĩa lòng luộc gồm đầy đủ lòng non, dạ dày, lưỡi và thịt chân giò hay chả cốm thơm nức. Ngoài ra thực khách còn có thể gọi đồ uống tự chế như nước râu ngô, nước chanh hoặc sữa ngô có giá từ 5000 đến 12.000 đồng.

2. Bún đậu đầu phố Phan Phù Tiên

Quán bún đậu mắm tôm đầu phố Phan Phù Tiên, Đống Đa có lẽ là một trong những quán bún đậu đông khách nhất ở Hà Nội. Quán chỉ bán buổi trưa và nếu khách ra tầm 12h thì có thể sẽ phải đứng chờ khá lâu. Thế nhưng quán vẫn luôn đông khách. Bởi chủ quán khôngbao giờ rán sẵn đậu, chỉ khi khách gọi mới rán, vì thế đĩa đậu mang ra luôn nóng, giòn, ráo mỡ, không còn cảm giác ngấy. Mắm tôm ở đây được đặt từ Thanh Hóa, rưới thêm chút mỡ nóng, thêm chanh tươi, ớt cắt lát mỏng, đánh bông lên, thơm nức.

Không chỉ có bún đậu đơn thuần, bún đậu đầu phố Phan Phù Tiên còn có thêm chả cốm, thịt chân giò và lưỡi luộc. Chả cốm cũng được rán giòn lên, nóng hổi mới đưa ra. Còn thịt chân giò và lưỡi luộc trái lại để nguội và thái ra thành từng miếng nhỏ vừa miệng.

Bún đậu mắm tôm ở đây dù không phải cao sang, cầu kỳ nhưng vẫn có sức hấp dẫn kỳ lạ. Dù là một quán vỉa hè nhưng bạn vẫn có thể bắt gặp tại đây nhiều “trai thanh, gái lịch” hay quý ông, quý bà sang trọng tới thưởng thức.

3. Bún đậu Việt, Hàng Khay

Điểm gây ấn tượng đầu tiên ở bún đậu Việt là không gian nhỏ hẹp và khách sành ăn phải thực sự… kiên nhẫn mới có thể chờ tới lượt thưởng thức món ăn dân dã mà thanh tao của Hà thành này.

Bún đậu sạch sẽ, được đặt trong cái mẹt xinh xinh có lót lá chuối có thể làm hài lòng bất cứ thực khách khó tính nào. Đi riêng mẹt nhỏ, còn đi đôi là mẹt to hơn. Nếu gọi suất đầy đủ, bạn sẽ được sắp đủ bún, đậu, thịt chân giò, ba chỉ, chả cốm, giò tai, dồi chiên, rau sống và cả kẹo cao su.

Xem clip các bạn trẻ Hà thành giới thiệu món bún đậu Hàng Khay nổi tiếng:

Dù khách có đông mấy nhưng bao giờ, đồ ăn ở đây cũng được “chăm sóc” cẩn thận. Giò tai, chả cốm luôn được chiên già, vàng rộm. Đậu được cắt thành từng miếng nhỏ rồi mới chiên, giòn tan tứ phía. Nhìn thế thôi cũng đủ làm khách thòm thèm, đã mắt.

Đậu rán ở bún đậu Việt được các thực khách sành ăn đánh giá là “ngon hiếm thấy” với hương vị bùi ngậy, giòn ngoài mềm trong. Mắm tôm cũng thơm phức, dậy mùi nên khách chỉ ăn không thôi cũng đủ xuýt xoa, thích thú.

Ngon, vất vả và không hề rẻ với giá 45.000 đồng một suất chưa kể gửi xe và công “chầu chực” nhưng bún đậu Việt, Hàng Khay vẫn được xem là “đệ nhất bún đậu” được dân Hà thành ưa thích.

4. Bún đậu lòng nướng Hoàng Cầu

Quán bún đậu nằm trong một ngõ nhỏ, nếu là khách vãng lai khó lòng tìm ra nhưng với dân công sở và dân sống quanh khu Hoàng Cầu thì hiếm người không biết đến.

Đến đây, chỉ cần ngó vào khu bếp với than hoa đỏ rực và thơm phức, tỏa khói nghi ngút là khách đã bị hút hồn. Vậy nên, hầu như bàn khách nào gọi bún đậu cũng phải kèm theo một đĩa nướng với dồi, thịt dải…

Đồ ăn ở đây từ mắm tôm, đậu rán, chả cốm đến lòng nướng đều là những món quen thuộc, phổ biến. Mắm tôm dậy mùi, đậu rán cắt nhỏ rồi chiên giòn tứ phía và dồi nướng mềm ngọt là những điểm thu hút thực khách nơi đây.

Ngoài các địa điểm trên, thực khách cũng có thể thưởng thức món ăn dân dã này ở một số địa chỉ nổi tiếng khác của Hà Nội như:

– Bún đậu Trung Hương số 49 ngõ Phất Lộc, Hàng Bạc, Hoàn Kiếm.

– Bún đậu Gốc Đa, số 4 Ngõ Gạch, Hoàn Kiếm.

– Bún đậu ở 39A Lý Quốc Sư, Hoàn Kiếm.

– Bún đậu chị Thoa số 31 Láng Hạ, Đống Đa.

– Bún đậu chị Nga đầu dốc Hàng Than, Ba Đình.

Hạ Vy (Doisongphapluat.com)

Tảo dẹt, thuốc quý hỗ trợ điều trị ung thư

Côn bố là một loại tảo dẹt ở biển, người ta đã nghiên cứu và cho kết luận nó có tác dụng chống u bướu. Trong tương lai côn bố được mệnh danh là một loại dược liệu phòng chống ung thư.

Côn bố có tên khoa học là: Laminasia japonica Aresch. Cây thuộc họ Côn bố (Laminariaceae) là một loại tảo dẹt ở biển. Người ta thu hái vào mùa hạ và mùa thu đưa về rửa sạch rồi phơi khô dùng.

– Đối với Y học cổ truyền: từ xa xưa ông cha ta đã biết dùng Côn bố trong điều trị bệnh thu được kết quả tốt. Theo Y học cổ truyền, côn bố có vị mặn, tính hàn, vào kinh Tỳ, Vị, Thận.Tác dụng, công hiệu của Côn bố: tiêu tan được những chứng loa lịch (tràng nhạc hay các hạch), anh lựu (bướu cổ), trị được thủy thũng, phá được tích tụ (u cục) (nhuyễn kiên tan kết tức làm mềm u cục), hay là chứng đàm kết thành khối, dùng nó có thể mềm ra và tiêu được, trị chứng lâm (viêm đường tiết niệu), sưng đau tinh hoàn.

– Đối với Y học hiện đại: người ta thấy trong thành phần Côn bố có tới 60% Hydrat carbon. Trong Hydrat carbon thành phần chủ yếu là: Algin, lactosan, pentosan, vitamin, protit và một số chất béo, tro toàn phần trong đó có Iot, Kali, Sắt và Canxi.

Những khám phá gần đây cho thấy: khi nghiên cứu tác dụng chống u bướu của Côn bố, người ta đem chiết xuất Côn bố lấy ra được chất Laminaria angustata bằng nước nóng. Khi tiêm vào khoang bụng chuột 100mg/kg thể trọng hoặc tiêm thẳng vào khối u 50mg/kg thể trọng trước và sau khi cấy ghép khối tế bào ung thư u S180. Tế bào u S180 được cấy trên da chuột .tiêm 100mg/kg thể trọng vào khối u trong 5 lần tỷ lệ ức chế u là 92,3%.

Dùng bằng phương pháp uống đối với chuột như ở thực nghiệm trên: dịch chiết của Laminaria angustata từ nước nóng để nguội trộn vào thức ăn cứ 100mg/kg và 50mg/kg/ngày. Thuốc tỷ lệ ức chế với tế bào u S180 là 76,3% và 83,6%. Qua đó thấy Côn bố có hoạt tính chống u bướu rõ rệt nhưng đường uống kém hơn đường tiêm. Người ta cho rằng thành phần kháng u bướu chủ yếu có thể là loại Polysaccharide và Nucleacid.

TS. Trần Lập Công

Nêm gia vị sao cho đúng cách?

TS Phan Thị Sửu (Giám đốc Trung tâm kỹ thuật an toàn vệ sinh thực phẩm) cho biết, đến nay chưa có nghiên cứu nào nói việc nêm gia vị không đúng lúc sẽ gây bệnh cho con người.

 

 

Nêm gia vị làm sao để làm cho món ăn được ngon hơn là mối quan tâm của nhiều bà nội trợ. Bởi vì, nêm gia vị không chỉ cần vừa tay mà còn phải đúng thời điểm để hòa quyện vào thực phẩm. Vậy có hay không chuyện nêm gia vị không đúng lúc sẽ gây bệnh?

Trao đổi với chúng tôi, PGS.TS. Phan Thị Sửu (Giám đốc Trung tâm Kỹ thuật An toàn Vệ sinh thực phẩm) cho biết: “Gia vị có nhiều loại như muối, nước mắm, mỳ chính, hạt tiêu, hành tỏi… Tuy nhiên, đến nay chưa có nghiên cứu nào nói việc nêm gia vị không đúng lúc sẽ gây bệnh cho con người. Việc nêm gia vị sớm hay muộn là tùy vào món ăn, cách nấu của bà nội trợ. Tuy nhiên, việc cho gia vị đúng thời điểm cũng có thể góp phần giúp cho món ăn được ngon hơn”.

Muối, bột canh: Cho vào ướp hoặc nêm khi nấu canh

Có một số thông tin cho rằng, với các món xào, thì nên cho muối vào cùng với dầu ăn, rồi mới cho thực phẩm vào sau một phút để xào. Cách làm này sẽ giúp loại bỏ đến 95% độc tố aflatoxin có trong muối.

Trước thông tin đó, PGS. TS Phan Thị Sửu, cho rằng điều này không đúng và không có cơ sở khoa học. “Bởi vì, alflatoxin chỉ tạo thành ở các hạt có dầu bị mốc như lạc, hạt điều chứ không thể có alflatoxin trong muối. Muối có thể cho vào khi ướp thực phẩm, nêm nếm trong khi đun nấu hoặc khi đã xào, nấu xong”.

Theo PGS. TS, ngày nay người nội trợ thường dùng bột canh thay muối trắng. Bột canh cho vào các thực phẩm để kho, rán, thường cho vào ướp cùng thịt, cá để ngấm vào thực phẩm làm tăng vị đậm đà. Khi luộc rau cho một chút bột canh vào nước đun sôi (vì nhiệt độ sôi của nước muối cao hơn) sẽ làm cho rau luộc được xanh hơn. Tương tự khi nấu canh cũng nên cho muối trước khi cho rau vào nấu để cho rau đậm đà và xanh hơn.

Nước mắm: Không nên nấu hoặc ninh kỹ quá

Nước mắm có vị ngọt của các các axit amin tạo ra trong quá trình muối chượp (nguyên liệu thuỷ sản – thường là cá ướp muối – đang phân huỷ dùng để làm nước mắm). Nếu nấu hoặc ninh kỹ quá có thể làm mất đi các axit amin nên chỉ nấu ở một thời gian thích hợp đảm bảo đủ chín thực phẩm. Nước mắm có thể cho vào thực phẩm khi ướp hoặc trước khi nấu.

Đường: Nên để lửa ở nhiệt độ vừa phải

Đường vừa tạo vị ngọt vừa tạo màu cho thức ăn. Đối với món kho hoặc chiên, rán thường ướp thực phẩm với đường. Nếu chiên rán thì chỉ để lửa 170 độ C – 200 độ C, thực phẩm sẽ có màu nâu cánh gián vừa phải rất hấp dẫn. Song, nếu để nhiệt độ cao hơn, đường sẽ bị caramen hóa làm cho thực phẩm có màu  nâu đen, làm mất đi vẻ đẹp của món ăn.

Hành, Tỏi: Ướp thực phẩm hoặc phi thơm đều được

Hành có thể cho vào khi ướp thực phẩm, hoặc cho vào mỡ để phi lên trước khi xào. Khi xào rau muống hay ngọn bí, nên lấy một ít tỏi phi với dầu mỡ cho thơm rồi cho rau vào xào, gần chín cho thêm một ít tỏi, giã nhỏ vào sẽ có một món rau xào thơm ngon dậy mùi tỏi.

Hạt tiêu: Cho vào sau khi xào xong

Hạt tiêu có chất tạo vị cay và tinh dầu, khi đun lâu thì tinh dầu bay hơi, chất cay vẫn còn. Khi kho thịt cá thì nên cho hạt tiêu xay không mịn (còn từng mảnh), có thể dùng hạt tiêu đã rang chín hoặc hạt tiêu sống đều được. Với các món xào, dùng hạt tiêu rang chín và xay mịn để cho vào sau khi đã xào xong.

Ngoài ra, TS Phan Thị Sửu lưu ý người nội trợ không nên dùng các phẩm màu tổng hợp. Nên tận dụng cách tạo màu tự nhiên như màu xanh từ lá riềng, màu đỏ từ quả gấc, hạt điều nhuộm, từ quả cà chua, màu vàng từ quả dành dành, củ nghệ.

Dầu ăn: Tuyệt đối không dùng dầu chiên đi chiên lại

TS Phan Thị Sửu còn chia sẻ, “Trong khi đun nấu, đáng lo ngại nhất là việc dùng dầu chiên đi chiên lại nhiều lần. Vì, nếu dùng dầu chiên đi chiên lại sẽ tạo ra chất trans fat có thể gây ung thư. Vì vậy, tuyệt đối không dùng dầu chiên đi chiên lại nhiều lần”.

Với mì chính, một điều cần lưu ý nữa là đối với một số người có cơ địa dị ứng với mì chính (bột ngọt) thì không nên dùng thức ăn có nêm nhiều mì chính.

 

Anh Minh (Khampha.vn)

CÔNG DỤNG TRỊ NHIỀU BỆNH CỦA BỒ KẾT

 Bồ kết là loại quả không xa lạ với miền quê Việt Nam vì có thời, đây là nguyên liệu để gội đầu phổ biến. Không chỉ có tác dụng bảo vệ tóc, Bồ kết còn có nhiều tính năng bảo vệ cơ thể khác.

Quả bồ kết có vị cay, mặn, tính ôn, hơi độc thông khiếu, khử đờm, tiêu thũng, làm hắt hơi. Hạt có vị cay tính ôn, thông đại tiện, tán kết, chữa mụn nhọt. Gai có vị cay, tính ôn, tiêu thũng, xẹp mưng mủ (bài nung ), sát trùng….

Con gọi là chùm kết, tạo giác. Bồ kết mọc hoang và được trồng khắp nơi ở nước ta. Bộ phận dùng: quả bồ kết gọi là tạo giác. Gai bồ kết gọi là tạo giác thích. Hạt bồ kết gọi là tạo giác tử. Quả tạo giác có 10% saponin màu vàng và saponin gleditsia B-G, saponin australozit, chứa 5 chất flavonoit là inteolin, saponaretin, vitestin,homorientin và orientin. 5 chất này có hoạt tính diệt siêu vi trùng, sapogenin diệt trùng roi âm đạo. Gai bồ kết có gleditsia saponin B-G, axit palmatic. Quả có vị cay, mặn, tính ôn, hơi độc thông khiếu, khử đờm, tiêu thũng, làm hắt hơi. Hạt có vị cay tính ôn, thông đại tiện, tán kết, chữa mụn nhọt. Gai có vị cay, tính ôn, tiêu thũng, xẹp mưng mủ (bài nung ), sát trùng… Sau đây là cách dùng bồ kết chữa bệnh.

Trị trúng phong cấm khẩu, ngạt mũi, viêm xoang, khó thở: Đốt quả, hạt, thêm ít bạc hà thổi lỗ mũi cho hắt hơi. Xát chân răng cho há miệng tỉnh lại. Xông lỗ mũi để dễ thở.

Trúng phong méo miệng : dùng 200g bồ kết, bỏ vỏ, nghiền nhỏ, hòa dấm ăn lâu năm, méo bên phải thì phết, dán bên trái; méo bên trái thì phết, dán bên phải, khô làm lại.

– Động kinh, đờm nghẹt cổ, miệng sùi bọt mép, hen suyễn khò khè: Lấy quả bồ kết đốt tồn tính, phèn chua phi, 2 thứ lượng bằng nhau. Ngày uống 3 – 6g, chia nhiều lần, mỗi lần 0,5g, ra đờm thì dừng.

Chữa ho suyễn: bồ kết 1g, cam thảo 1g, đại táo 1g, gừng sống 1g. Đổ 600ml nước, sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.

– Lở loét trên đầu, u nhọt, rụng tóc : đốt bồ kết ra than, tán nhỏ, trát lên chỗ loét, nhọt.

– Trị trúng thử (cảm nắng nóng) bất tỉnh : Bồ kết 40g sao tồn tính, cam thảo 40g sao qua, nghiền nhỏ, uống 40g với nước ấm.

– Trị họng sưng đau: bồ kết 1 nắm, bỏ vỏ, ngâm dấm nướng, làm 7 lần, không cho cháy quá, nghiền nhỏ, dùng chút ít thổi vào họng, làm nhiều lần nôn ra dãi, nước bọt là khỏi.

– Bệnh động kinh do phong tà : Bồ kết sao tồn tính 160g, mật đà tăng 40g, rễ, lá, thân cây ké đầu ngựa khô 160g. Tất cả phơi khô, nghiền nhỏ, hòa nước cháo giã nhuyễn viên bằng hạt ngô, lấy chu sa làm áo. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 30 viên uống với nước táo tàu. 3 ngày sau giảm dần còn 20 viên.

– Cước khí sưng đau : bồ kết, xích tiểu đậu, lượng bằng nhau, nghiền nhỏ, hòa rượu và dấm đắp chỗ đau.

– Trị cảm thương hàn mới mắc, sốt; không phân biệt âm chứng hay dương chứng: Dùng 1 nắm bồ kết, sao, rồi nghiền nhỏ hòa với nước chín mà uống.

– Trị bỗng nhiên váng đầu hoa mắt: Dùng bột bồ kết thổi mũi cho hắt hơi là khỏi.

– Hóc xương cá ở cổ : bột bồ kết thổi mũi khiến hắt hơi đẩy xương cá ra là khỏi.

– Đại tiểu tiện không thông: bồ kết sao nghiền nhỏ, uống 15g với nước ấm là khỏi.

-Trị đau răng do phong nhiệt : lấy 1 quả bồ kết, bỏ hạt, rồi cho muối vào đầy quả bồ kết, thêm chút phèn chua, lấy đất sét vàng buộc chặt rồi đem nung lửa, lấy ra nghiền bột. Mỗi ngày lấy bột bồ kết xát răng, rất công hiệu.

– Trị sâu răng gây đau: dùng bột bồ kết xát lên chỗ sâu răng, cú dãi thì nôn nhổ ra. Hoặc dùng bồ kết và muối ăn, lượng bằng nhau, nghiền nhỏ, ngày xát vào chỗ sâu rănng nhiều lần.

– Trị miệng nôn, trụn tháo: lấy bột bồ kết bằng hạt đậu thổi vào mũi, hắt hơi được thì hết.

– Trị lòi dom: lấy 5 quả bồ kết giã nhỏ ngâm với 2 lít nước sôi, để nguội dần, đựng vào chậu to rồi ngồi ngâm mông vào nước bồ kết, dom sẽ tự co lên. Sau khi dom đã co thì nấu nước bồ kết rửa eo lưng, bụng trên, bụng dưới để khí bồ kết thông hành thì không bị trở lại nữa.

– Trị lỵ amip mạn tính : bột quả bồ kết và phrfn phi lượng bằng nhau, ngày 2g chia uống 2 lần. Hoặc hạt bồ kết sao vàng tán bột luyện viên bằng hạt ngô. Ngày uống 10-12 viên vào sáng sớm.

– Vùng dương vật đau 1 bên: dùng bồ kết sao qua nghiền nhỏ hòa nước đắp vùng đau.

– Bí đại tiện, trướng bụng, bí tiểu tiện : Bồ kết đốt tồn tính tán bột trộn với dầu lạc hoặc dầu vừng, tẩm bông đút vào hậu môn, mỗi lần 0,2 gam, làm vài ba lần sẽ trung tiện và thông đại tiểu tiện.

– Trẻ con đầu chốc lở, đầu hói không mọc tóc : Dùng bồ kết sao đen nghiền nhỏ, bỏ vảy trên đầu, đắp bồ kết vào, không quá 3 lần là khỏi.

– Trị đi lỵ không ngừng, dùng mọi thuôc đều không khỏi: dùng hạt bồ kết sấy khô nghiền nhỏ giã nhuyễn với nước cơm viên bằng hạt ngô. Mỗi lần uống 40-50 viên với nước ấm.

-Trị trường phong ra máu : dùng hạt bồ kết, hạt hòe đều 40 gam, lấy cám gạo sao cho thơm, bỏ cám, thuốc nghiền nhỏ. Mỗi lần uống 4g với nước cơm.

– Trị trẻ chảy dãi, tỳ nóng có đờm : nhân bồ kết 20g, bán hạ tẩm nước gừng sao khô (làm 7 lần ) 4g, cùng nghiền nhỏ, hòa nước gừng giã nhuyễn viên bằng hat tiêu. Ngày uống 1 lần 1 viên với nước ấm.

– Trị sâu răng gây đau: bột nhân bồ kết cho vào miếng vải mỏng mềm, gói lại bằng ngón tay cho vào dấm đun nóng, ngậm ngày 3-5 lần.

– Trị mặt sạm đen nổi mụn : dùng hạt bồ kết và hạnh nhân, lượng bằng nhau, nghiền đều. Tối đi ngủ hòa nước bôi mặt, mụn.

– Trẻ con bị trùng thiệt (lưỡi sưng to như mọc 2 lưỡi ) : Gai bồ kết đốt thành tro hòa với tí băng phiến đặt dưới lưỡi rồi ngậm miệng lại. Nước bọt ra nhiều thì nhổ bỏ đi. Ngày ngậm thay 3 lần.

– Trị đái dắt, không đi tiểu được : gai bồ kết sao tồn tính, phá cố chỉ, 2 thứ lượng bằng nhau, nghiền nhỏ uống với rượu.

Trị tràng phong ra máu : Dùng tro gai bồ kết 80 gam, hoa hòe sao 40g, hồ đào nhân sao 40g, phá cố chỉ sao 40g, nghiền nhỏ. Mỗi lần uống 4g với nước cơm.

– Trị áp-xe vú: gai bồ kết sao tồn tính 40g, bột vỏ con trai 4g hòa đều. Mỗi lần uống 4g với rượu ấm.

Lương y Nguyễn Văn Đồng

Theo suckhoedoisong.vn

Cách nấu Chân giò kho sả ớt

Móng giò kho sả ớt là món ăn ngon miệng, rất thích hợp tẩm bổ cho mọi người, nhất là bà mẹ cho con bú.
Nguyên liệu:
  • Giò heo: nửa ký
  • Sả: 2 củ
  • Hành củ, ớt tươi
  • Nước mắm, đường, dầu hào, bột ngọt, tiêu, tương ớt.
  • Nước hàng (xem CÁCH LÀM NƯỚC HÀNG)

Cách làm:

– Giò heo chặt khoanh tròn vừa ăn. Cho vào nồi ngập nước, thêm 1 nhúm muối, nấu chín rồi vớt ra rửa lại cho hết bọt và xương bể. Để cho thật ráo nước.

– Lấy 1 củ sả, 1 củ hành ra băm nhuyễn. Ướp chỗ hành sả băm này với giò heo, thêm 1 muỗng súp dầu hào, 1 muỗng súp ớt tương, 1 muỗng súp nước hàng, 2 muỗng cafe đường, 1/2 muỗng súp nước mắm. Trôn đều rồi ướp ít nhất 1 tiếng.

– Củ hành và củ sả còn lại xắt thành miếng nhỏ. Bắc nồi, cho dầu ăn vào phi thơm hành sả.

– Trút hết giò đã ướp vào xào. Khi thịt đã săn lại, cho thêm 2 trái ớt, đổ nước vừa mặt thịt, vặn lửa nhỏ, kho cho tới khi giò mềm nhừ, đâm đũa xuyên qua được, nước cạn còn 1/3 thì tắt bếp.

– Ăn với cơm nóng.

Bé Thúi

Bơ, loại trái cây bổ nhất thế giới

không chỉ là món ăn khoái khẩu của nhiều người, mà nó còn có tác dụng như một loại thuốc bổ. Sách kỷ lục Guiness đã chọn bơ là trái cây nhiều dinh dưỡng nhất. Những công dụng đặc biệt của bơ là tốt cho hệ tiêu hóa, phòng bệnh, làm cân bằng hệ thần kinh và cải thiện chức năng sinh lý.

Quả bơ xuất phát từ miền nhiệt đới châu Mỹ. Tại nước ta, bơ xuất hiện từ đầu thế kỉ 20, nay được trồng phổ biến ở các tỉnh tây nguyên như Lâm Đồng, Đăk Lăk. Bơ rất bổ dưỡng, theo phân tích, trong 1 lạng bơ chín có 2,08g protid, 60g nước, 7,4g glucid, 20g lipid, 1,26g tro, các chất khoáng: Canxi 12mg, Phốt pho 26mg, Sắt 0,6 mg, sinh tố C 20mg, B1 0,05mg, A 205mg, aminacid: cystin, tryptophan, và nhiều chất kháng khuẩn hữu ích. Với lượng chất bổ như thế, sách kỷ lục Guiness đã chọn bơ là trái cây nhiều dinh dưỡng nhất.

Quả bơ ngon miệng, bổ, lại dễ tiêu hóa. Có thể ăn bơ chín không, ăn với đường, sữa, chanh hoặc xay sinh tố, đánh thành kem, đều tốt. Bơ có tác dụng làm cân bằng hệ thần kinh, kích thích tình dục, tăng sức đề kháng cho cơ thể. Trong bơ có ít đường nên người bị tiểu đường có thể ăn tốt. Bơ còn làm tăng độ acid của nước tiểu, hạ cholesterol trong máu. Người bị ốm, lao lực, mệt mỏi do lao động trí óc, đều có thể hồi phục nhờ ăn bơ. Bơ còn có tác dụng giải độc do ngộ độc thức ăn.

Vỏ bơ là phương thuốc dân gian trị giun sán.

Lá, vỏ, cành non của bơ có thể làm thuốc giảm họ, trị tiêu chảy, lị, ngộ độc do ăn uống: Dùng 20 – 40g lá hoặc vỏ cành non bơ, sắc với 750ml ra 300ml nước thuốc, chia làm 3 uống trước mỗi bữa ăn trong ngày. Lưu ý: Phụ nữ mang thai không nên dùng bài thuốc này vì có thể gây sảy thai, kích thích kinh nguyệt.

Dầu từ hạt bơ có tác dụng làm mềm, mịn da. Nếu xoa lên đầu có thể kích thích mọc tóc.

Dùng bơ để ổn định thần kinh: 200g bơ, 50g hoa lài, 30g mật ong. Bơ hấp chín rồi sấy khô, hoa nhài đem phơi khô, tán cả hai thứ này thành bột mịn, trộn với mật ong rồi vo thành từng viên bằng đầu ngón tay. Ngày uống 10 viên, chia làm 2 lần, uống với nước.

Chữa đau bao tử: 3 lạng bơ, 150g nghệ vàng, 50 ml mật ong. Bơ đem hấp chín rồi sấy khô, nghệ vàng phơi khô, hai thứ tán nhuyễn rồi dùng mật ong vo thành viên to bằng hột bắp, phơi khô rồi cho vào lọ dùng dần. Ngày uống 10 viên với nước nguội, chia làm 2 lần như trên.

Trị tiểu đường: hái lá bơ tươi trên cây xuống, cho vào nước nấu sôi, cạn 1 nửa nước thì chiết vô chai, bỏ tủ lạnh ngăn mát. Uống hàng ngày giúp điều trị tiểu đường.

Mỹ Lạo tổng hợp

Cách gói Nem chua

Nem chua là một món ăn độc đáo của Việt Nam từ thịt lên men. Món ăn hấp dẫn nhờ vị ngọt ngọt chua chua dậy mùi thơm của thịt lên men, và kết cấu dai của nạc, giòn của bì…

Nem chua ăn kèm với bánh tét, bánh chưng vào ngày Tết hay làm mồi nhậu rất ngon.

Nguyên liệu:

– Thịt thăn lợn: 600g
– Thịt thăn bò: 300g
– Bì lợn: 300g
– Thính gạo: 2 thìa ăn cơm
– Đường: 50g
– Gia vị làm nem chua của thái (Nam powder seasoning mix): 1 gói
– Hạt nêm: 2 thìa cà phê
– Nước mắm ngon: 2 thìa ăn cơm
– Rượu nếp: 2 thìa cà phê
– Hạt tiêu: 1 thìa cà phê
– Tỏi (5 củ to), ớt, bột canh, màng bọc thức ăn (hoặc lá chuối)

Thực hiện:

Bước 1: Bì lợn mua về cạo rửa thật sạch, cho vào nồi luộc chín tới với một ít muối, sau đó thái sợi thật nhỏ (nếu không có thời gian thì mua bì lợn thái sẵn ở những hàng bán nem thính tại các chợ). Cho vào bát bì lợn một ít rượu, dùng đũa trộn đều rồi xả nhanh qua nước nóng để bì lợn bớt hôi. Để cho bì ráo nước rồi cắt ngắn khoảng 2- 3cm.

Bước 2: Thịt bò và thịt lợn rửa sạch với nước đun sôi có pha chút muối loãng. Sau đó thái miếng nhỏ rồi cho vào ngăn đá tủ lạnh khoảng 3- 4 tiếng cho thịt thật lạnh và đông đá. Lấy thịt ra khỏi tủ lạnh cho vào máy xay thịt, xay cho thật nhuyễn.

Bước 3: Tỏi bóc vỏ, một nửa đem băm nhuyễn còn một nữa thái lát mỏng. Chia chỗ tỏi đã băm nhỏ làm 2 phần, 1 phần đem phi vàng. Ớt thái lát.

Bước 4: Cho tất cả các nguyên liệu: thịt xay, bì lợn, thính gạo, đường, mắm, rượu, hạt tiêu, tỏi phi vàng, tỏi sống băm nhỏ, hạt nêm, bột canh, 1 gói gia vị làm nem chua (gói to) vào chung 1 âu lớn. Dùng đũa đảo đều tất cả các nguyên liệu để cho các nguyên liệu quyện đều vào nhau.

Bước 5: Dùng màng bọc thực phẩm bọc lấy miệng âu rồi để khoảng 1 tiếng lại cho tiếp 1 gói gia vị làm nem chua nhỏ (gói nhỏ có trong gói lớn) vào trộn đều.

Bước 6: Khi này hãy nhanh tay cho thịt vào khuôn làm giò xào rồi vặn vít thật chặt để cho thịt kết dính với nhau. Dùng màng bọc thực phẩm bọc quanh , kín khuôn nem. Nếu khỏe tay có thể cho thịt vào 1 đầu của miếng giấy bạc hoặc lá chuối rồi gói lại như cuốn giò nhỏ (vừa gói vừa bóp thật chặt tay để cuốn nem chua được chặt và thịt kết dính với nhau).

Bước 7: Để khuôn nem chua ở nhiệt độ phòng, chỗ thoáng mát trong tầm 24 tiếng. Lúc này nem đã chín, chúng ta chỉ cần lấy nem ra khỏi khuôn, cắt thành từng miếng nhỏ.

Có thể ăn ngay nem chua hoặc đem chiên tùy ý nhé!

Muốn để ăn dần thì nên cất nem vào tủ lạnh để bảo quản.

Chúc bạn thành công và ngon miệng cùng món nem chua!

Thùy Nguyễn
Nguồn: http://eva.vn/bep-eva/tu-tay-lam-nem-chua-nhau-tet-c162a165395.html